Trần Văn Thọ
Trong thời gian gần đây ở Nhật Bản có hai sự kiện liên quan kinh tế châu
Á làm tôi suy nghĩ nhiều đến Việt Nam. Thứ nhất là Hội nghị quốc tế về
Myanmar nhằm giúp nước nầy phục hưng kinh tế, tổ chức tại Tokyo ngày
11/10, ngay sau hội nghị thường niên của Ngân hàng Thế giới và Qũy tiền
tệ quốc tế (IMF). Thứ hai là hiện tượng một cuốn sách về kinh tế của một
nước châu Á đang bán rất chạy, đó là cuốn Indonesia: Cường quốc kinh tế
của Sato Yuri, nhà nghiên cứu Nhật Bản chuyên về Đông Nam Á.
Hình ảnh của Myanmar trên vũ dài quốc tế ngày càng sáng sủa, kể từ khi
chính phủ mới thành lập tháng 3 năm 2011, với thái độ, chính sách hòa
hợp hòa giải của tổng thống Thein Sein và sự hưởng ứng tích cực của bà
Aung San Suu Kyi, chủ tịch Liên minh quốc gia vì dân chủ (NLD). Mỹ đã
hứa giải trừ hầu hết chính sách cấm vận và cộng đồng quốc tế đã đi đến
đồng thuận là giúp Myanmar phát triển.
Hội nghị quốc tế về Myanmar có sự tham gia của nhiều quốc gia và tổ chức
quốc tế trong đó có những nhà tài trợ lớn như Nhật, Ngân hàng thế giới,
IMF, và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB). Đây cũng là những chủ nợ lớn
của Myanmar từ trước. Mục đích của hội nghị là để quyết định việc xử lý
những nợ tồn đọng làm tiền đề cho những khoản tài trợ mới nhằm giúp
nước nầy xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thu hút đầu tư, mở đầu kỷ
nguyên phát triển. Tại hội nghị, Nhật Bản, chủ nợ lớn nhất (500 tỉ yen)
của Myanmar, đã cam kết xóa 300 tỉ yen và các ngân hàng thương mại Nhật
sẽ cho vay 200 tỉ yen để trả số nợ còn lại. Ngân hàng thế giới cũng hứa
cho vay 400 triệu USD và ADB cho vay 500 triệu USD để Myanmar trả họ
các món nợ cũ. Đầu năm sau, Nhật và các cơ quan quốc tế sẽ quyết định
cho Myanmar vay những khoản mới để xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong tình
hình mới nầy, Câu lạc bộ Paris mà các nước Âu châu là thành viên cũng dự
kiến có hành động tương tự đối với Myanmar.
Từ trước hội nghị quốc tế, ở Nhật đã xảy ra hiện tượng “Bùng nổ
Myanmar”: Sách báo viết về Myanmar, chương trình truyền hình về nước nầy
xuất hiện nhiều, doanh nghiệp Nhật đổ xô sang Myanmar tìm cơ hội đầu
tư. Đặc biệt Tổ chức xúc tiên mậu dịch Nhật (JETRO) và nhiều tập đoàn
kinh tế đã lập phòng đại diện tại Yangon, cựu thủ đô và là thành phố lớn
nhất Myanmar. Các tập đoàn Mitsubishi, Sumitomo và Marubeni đã quyết
định xây dựng các khu công nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào
nước nầy. Ngày 15/10, hãng hàng không ANA bắt đầu đường bay trực tiếp
từ Tokyo đến Yangon.
Sự kiện này làm tôi nhớ lại năm 1993, năm “Bùng nổ Việt Nam” trên vũ đài
thế giới, nhất là tại Nhật. Nhật đi đầu trong việc nối lại viện trợ cho
Việt Nam (vào cuối 1992) và vận động các nước khác và các tổ chức tài
chánh quốc tế để đi tới Hội nghị quốc tế về Việt Nam tại Paris (Hội nghị
nầy sau đó tổ chức hàng năm với tên gọi là CG –Consultative Group). Tôi
vẫn nhớ rất rõ không khí sôi nổi không phải chỉ trong giới doanh
nghiệp, ngân hàng, tổ chức kinh tế, mà còn trong giới truyền thông, học
thuật, ... khi bàn về triển vọng phát triển của Việt nam. Doanh nghiệp,
ngân hàng Nhật đã ồ ạt sang Việt Nam như ta đã biết.
Nhưng hiện tượng “bùng nổ Việt Nam” chỉ kéo dài độ 3 năm, đến khoảng đầu
năm 1996. Tại Nhật, quan tâm về Việt Nam nguội dần. Trên thực tế, nhiều
dự án đầu tư của Nhật tại Việt Nam dừng lại, và rất ít dự án mới, nhiều
văn phòng đại diện của ngân hàng thu hẹp phạm vi hoạt động, có cả
trường hợp họ đóng cửa và cho văn phòng ở Bangkok kiêm nhiệm. Không phải
chỉ có sự thay đổi từ Nhật Bản. Nhìn toàn thể, FDI vào Việt Nam bị
ngưng trệ trong một thời gian dài (từ 1997 đến 2004). Về nguyên nhân của
tình trạng nầy, như ta đã biết, chính sách thu hút FDI có nhiều nội
dung không hợp lý, xa lạ với thường thức quốc tế nhưng chậm được cải
thiện, chính sách kinh tế hay thay đổi, thủ tục hành chánh rườm rà,
chính sách gía cả dịch vụ phân biệt đối xử với người nước ngoài, và nhất
là định hướng phát triển công nghiệp không rõ ràng, không có những yểm
trợ cần thiết, v.v.
Cùng lúc đó, có hiện tượng bùng nổ đầu tư mới tại vùng duyên hải Trung
Quốc và FDI chuyển nhanh sang thị trường lớn đó. Đầu năm nay, trong một
hội nghị tại Tokyo, tôi gặp một cựu quan chức Bộ Tài chánh Nhật, một
trong những người đại diện chính phủ Nhật phụ trách việc nối lại viện
trợ cho nước ta và vận động chuẩn bị cho Hội nghị quốc tế về Việt Nam
năm 1993. Ông nói với tôi đầy sự tiếc rẻ: “Hồi đó chúng tôi nghĩ Việt
Nam sẽ phát triển mạnh mẽ. Việt Nam chứ không phải Trung Quốc”.
So sánh thời điểm hai hội nghị quốc tế và hai hiện tượng bùng nổ, cũng
như xét về tình trạng hạ tầng và nhiều tiêu chí khác, ta thấy Myanmar đi
chậm hơn Việt Nam khoảng 20 năm. Nếu tình hình ở Việt Nam hiện nay
không thay đổi, nếu Việt nam không nhanh chóng thực hiện thành công
chiến lược tái cơ cấu và thay đổi mô hình tăng trưởng như đã bàn thì
chuyện Myanmar theo kịp và vượt qua Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian.
Bây giờ bàn về cuốn sách Indonesia: Cường quốc kinh tế. Với dân số 240
triệu, thu nhập đầu người khoảng 3.500 USD, nền kinh tế 850 tỉ USD (tư
liệu năm 2011) tuy không nhỏ (gấp 7 lần Việt Nam) nhưng cũng chưa thể
gọi Indonesia là cường quốc kinh tế. Cuốn sách nầy cũng không có ý nói
Indonesia đã là một cường quốc kinh tế. Nhưng bằng những phân tích từ lý
luận kinh tế phát triển, bằng khảo sát chi tiết về tiềm năng, về thể
chế, về chiến lược phát triển kinh tế vừa công bố năm ngoái và về khả
năng của tầng lớp lãnh đạo hiện nay, tác giả đã chứng minh một cách rất
thuyết phục rằng Indonesia đang bước vào giai đoạn phát triển cao, bền
vững và sẽ là một cường quốc kinh tế trong tương lai không xa. Có thể
tóm tắt 3 điểm chính:
Thứ nhất, ngoài sự phong phú và đa dạng về tài nguyên, là nước đông dân
thứ tư trên thế giới, Indonesia được thuận lợi nhiều mặt về quy mô thị
trường. Hơn nữa, cơ cấu dân số trong đó tỉ lệ người trong độ tuổi lao
động tiếp tục tăng trong khoảng 20 năm tới sẽ giúp cho nước nầy tăng
tích lũy và bảo đảm nguồn lao động trong quá trình phát triển nhanh sắp
tới. Nhưng điểm nầy chỉ là thuận lợi chứ không cơ bản. Hai điểm sau đây
quan trọng hơn.
Thứ hai, chất lượng thể chế của Indonesia ổn định và ngày càng được cải
thiện, được thế giới đánh giá cao. Sau cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á
kéo theo sự sụp đổ của tổng thống Suharto (tháng 5/1998), quyền hạn của
Quốc hội và tư pháp được củng cố, thể chế tam quyền phân lập được xác
lập từng bước. Năm 1999 lần đầu tiên Indonesia thực hiện tổng tuyển cử, 5
năm sau, lần đầu tiên dân chúng được trực tiếp bầu tổng thống. Tổng
thống được bầu Susilo B. Yudhoyono tiếp tục ổn định tình hình xã hội,
kinh tế và được tái cử năm 2009. Ông đươc báo Time (Mỹ) năm 2009 bình
chọn là 1 trong 100 người có ảnh hưởng trên thế giới, trong đó ông được
xếp ở vị trí rất cao (thứ 9). Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô ngày càng ổn
định, chẳng hạn lạm phát từ năm 2009 đến nay được giữ ở mức trung bình 4
%, tỉ lệ nợ công trên GDP liên tục giảm (gần đây chỉ còn độ 25%), cán
cân thanh tóan và cán cân vãng lai tính theo năm thì luôn xuất siêu từ
những năm gần đây, v.v... Liên quan chất lượng thể chế để bảo đảm cho
kinh tế ổn định, một điểm đáng nói là thống đốc ngân hàng nhà nước được
độc lập, không bị chính trị chi phối, vì theo luật mới, một khi đã được
Quốc hội bầu thì suốt nhiệm kỳ 5 năm cả tổng thống và quốc hội không có
quyền bãi miễn.
Thứ ba, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế dài hạn được hoạch
định công phu, nội dung có sức thuyết phục và các cơ chế, biện pháp thực
hiện được dư luận trong và ngoài nước đồng tình. Năm 2009, sau khi đắc
cử nhiệm kỳ 2, tổng thống Yudhoyono xúc tiến lập Chiến lược phát triển
kinh tế 15 năm (2011-2025) với phương châm kế hoạch phải phát huy được
hết tiềm năng của Indonesia và là khi công bố phải “biểu thị được ý chí
phát triển không có gì đáng hổ thẹn với thế giới”. Phương pháp lập kế
hoạch là huy động trí tuệ của chuyên gia, trí thức và triệt để dân chủ
và phân quyền. Cứ vài ba tháng, tổng thống triệu tập lãnh dạo của 13
châu trong cả nước và đại diện các đoàn thể kinh tế cùng với giới chuyên
gia hội họp một lần để bàn nội dung kế hoạch và các công cụ chính sách
để thực thi. Sự phân công về vai trò của nhà nước và thị trường, của
trung ương và địa phương cũng được đặc biệt lưu ý.
Tháng 5 năm 2011, khi kế hoạch soạn xong, đích thân tổng thống Yudhoyono
công bố với cả giới truyền thông trong và ngoài nước. Nội dung chiến
lược 2011-2020 được công bố bằng cả tiếng Indonesia và tiếng Anh. Theo
chiến lược nầy, toàn quốc sẽ chia làm 6 vùng phát triển, gồm tất cả 22
ngành, mỗi vùng phát triển chú trọng một số ngành tùy theo đặc điểm của
mình. Nhìn chung, 22 ngành ấy có cả nông lâm ngư nghiệp, chế biến công
nghiệp, du lịch, công nghệ thông tin, v.v.. phản ảnh tính chất và quy mô
của một nền kinh tế đông dân và nhiều tài nguyên. Chủ thể đầu tư chính
cho chiến lược là tư nhân trong và ngoài nước. Kể cả các dự án kết hợp
tư nhân và chính phủ (hình thái PPP), tỉ lệ của tư nhân (bao gồm FDI)
trong tổng đầu tư chiếm gần 75%. Đầu tư của chính phủ tập trung vào hạ
tầng và đặt trong tâm vào việc liên kết các vùng kinh tế.
Chiến lược 15 năm nầy dự kiến kinh tế Indonesia phát triển trung bình
7-9%/năm và vào năm 2025, Indonesia sẽ là một trong 10 nền kinh tế lớn
nhất thế giới với GDP khoảng 4.000- 4.500 tỉ USD và GDP đầu người độ
14-15 nghìn USD. Ngoài 3 đặc điểm giới thiệu ở trên, trong cuốn sách đã
dẫn, tác giả Sato phân tích nhiều mặt khác, như bộ máy hành chánh, chất
lượng quan chức, sự thay đổi tư duy của giới doanh nghiệp,... và kết
luận là khả năng thành công của Chiến lược 2011-2025 của Indonesia là
rất lớn.
Đọc cuốn Indonesia: Cường quốc kinh tế, trong đầu tôi luôn hiện ra câu
hỏi: Tại sao không phải Việt Nam? Tới bao giờ Việt Nam mới được người
dân trong nước và dư luận quốc tế tin tưởng sẽ có ngày trở thành một nền
kinh tế có địa vị đáng kể trên thế giới? Tuy dân số không bằng
Indonesia nhưng Việt Nam cũng là một nước đông dân (xếp thứ 13 trên thế
giới). Các điều kiện khác thì Việt Nam thuận lợi hơn nhiều. Indonesia có
hơn 10.000 đảo lớn nhỏ, việc xây dựng hạ tầng rất tốn kém và khó có
hiệu quả cao. So với Việt Nam, khí hậu Indonesia không thuận lợi bằng và
họ lại nằm xa các trung tâm phát triển ở Á châu. Việt Nam còn nhiều yếu
tố thuận lợi khác nữa.
Hiện nay quan hệ Nhật Trung xấu đi nên Nhật chuyển đầu tư sang các Đông
Nam Á trong đó có Việt Nam. Do đó mặc dù nhìn chung, FDI vào Việt Nam
gần đây giảm nhiều nhưng riêng của Nhật thì tăng đáng kể. Tuy nhiên, cần
chú ý là Nhật đang chú trọng đầu tư ở Thái Lan và Indonesia hơn là Việt
Nam. Năm ngoái tuy FDI của Nhật tại Việt Nam đạt 150 tỉ yen, tăng 2,4
lần so với năm trước, nhưng trong cùng thời kỳ FDI của Nhật tại Thái Lan
lên tới 570 tỉ yen, tăng gần 3 lần, và tại Indonesia 280 tỉ yen, tăng
tới 7 lần và còn đang tăng nhanh. Một điểm đáng lưu ý nữa là dư luận ở
Nhật nói chung ngày càng ít lạc quan về triển vọng phát triển của Việt
Nam nên khuynh hướng tăng FDI của Nhật có thể sẽ không bền vững, trừ
trường hợp Việt Nam cho thấy có tiến bộ rõ rệt trong quá trình cải cách
thể chế và có chiến lược phát triển được đánh giá là khả thi.
Liên quan đến FDI tại Á châu, một điểm nổi bật gần đây là các công ty xe
hơi của Nhật và Hàn Quốc đã chọn Indonesia làm cứ điểm sản xuất mới và
đang triển khai nhiều dự án cụ thể. Cuối thập niên 1980, Thái Lan đã
thành công trong việc thu hút FDI của Nhật và từ thập niên 1990 đã trở
thành cứ điểm sản xuất xe hơi quan trọng. Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội trong
hai thập niên 1990 và 2000 để bây giờ cơ hội đó đang chuyển sang
Indonesia.
Tiềm năng của nước ta rất lớn, nhưng đến bao giờ mới được phát huy? Trào
lưu phát triển ở Á châu đang bỏ Việt Nam lại đằng sau./.
No comments:
Post a Comment