Đoàn Văn Phi Long
Tiếng Việt chỉ có 36 âm vị ? Một trong những
phương cách hữu hiệu để tìm nguồn gốc tiếng Việt
là xác định được ngữ hệ và các cấu tạo cơ bản của
tiếng Việt. Các công trình nghiên cứu tiếng Việt từ
xưa chỉ trông cậy vào các học giả Tây phương, nhưng
hiện nay họ ít nghiên cứu tiếng Việt vì có thể họ cho
rằng người Việt có đầy đủ khả năng và đã khảo sát
kỹ càng tiếng Việt.
Thực tế thì trái lại rất ít
người Việt chịu khó nghiên cứu nguồn gốc tiếng Việt,
nhất là cách cấu tạo cơ bản, vì ngôn học là môn học
rất khó hiểu, khô khan, không lôi cuốn được người
đọc. Còn nếu có học giả khảo cứu thì thường đưa ra
nhiều kết luận không rõ ràng, không phù hợp với các
định nghĩa. Bài này có mục đích minh định lại các phần
cơ bản nhất của ngôn ngữ, đó là âm vị mà số học giả
Việt khảo cứu tiếng Việt còn ít hơn cả người Trung Hoa
. Sở dĩ có bài này là do cách nay một vài năm có đọc
trên Internet nước ngoài đăng tải một phát biểu của
tiến sĩ ngôn ngữ Hà Nội cho rằng tiếng Việt có 36 âm
vị và từ đó đến nay không ai thắc mắc gì cạ Nhận
định của nhà ngôn ngữ đã làm tác giả ngạc nhiên vì
nếu căn cứ theo nhiều tài liệu Tây phương thì số âm
vị này quá ít nếu đem so với tiếng Khmer và Thái. Tiếng
Việt là tổng hợp của nhiều thứ tiếng, trong số đó
có cả tiếng Mon-Khmer và Thái, nên không thể nào có số
âm vị quá khiêm nhường như thế .
Cuốn Thai phrase book ... dictionary chi thấy tiếng Thái có 74
âm vị gồm 21 phụ âm, 48 nguyên âm và 5 thanh. Cuốn sách
hướng dẫn du lịch Cambuchia của nhà xuất bản Lonely Planet
cho rằng tiếng Khmer có 57 âm vị gồm 33 phụ âm và 24
nguyên âm.
Ngay cả tiếng Anh tuy là ngôn ngữ đa âm tiết mà cũng có
43 âm vị gồm 13 nguyên âm và 30 phụ âm theo bảng Phoneme
Codes, International Phonetic Alphabet (IPA), tự điển Wikipediạ
Một tác giả khác cho tiếng Anh có 40 âm vi Vì âm vị rất
khó hiểu và khó phân tích nên ngay cả các nhà ngôn ngữ
học Tây phương cũng không nhất trí về con số âm vị
tiếng Anh, huống hồ là ta .
""Nghe nói chồng ba ta là nhà ngôn ngữ học ?""
""Vâng, ông ta nói được ba thứ tiếng.... đế
quốcđoanh, bia đá ôm Đại-hàn và cờ Tây ""
Vốn không biết một tí gí về ngôn ngữ học và cái ông
Tiến sĩ này lại chỉ phát biểu suông, không đưa ra giải
thích hay nêu ra bảng liệt kê các âm vị nên không rõ ông
ông ta đếm theo kiểu nào để ta có thể phân tích và
bàn luận
""Cô có biết đã lái hơn 100 cây số một giờ không?",
cảnh sát công lộ hỏi.
"Không thể được", cô Ký Điệu chống chệ"Tôi chỉ mới
rời nhà có hai mươi phút mà"
Như vậy là có ba loại người trong xã hội - người biết
đếm và người không biết đếm.
Tuy không có một chút đầu mối nào nhưng muốn tìm hiểu
thì không phải là không có cách. Cách dễ nhất là thăm
dò những người có thẩm quyền về ngôn ngữ học coi họ
có ý kiến như thế nào. Đi hỏi một Tiến sĩ ngôn ngữ
học VN là tiếng Việt có bao nhiêu âm vị thì được trả
lời là có 36, y chang cái ông Hà Nội. Lại hỏi thêm
""oi""trong oi ả có bao nhiêu âm vị thì trả lời là 2.
Câu
trả lời này cho thấy có một sự khác biệt với ý niệm
thông thường của các nhà ngữ học Tây phương. Số âm vị
quá ít là do sự đồng hoá âm vị với chữ cái, nghĩa là
đập vỡ các âm vị phức tạp thành từng mảnh vụn theo
kiểu bắn phá nguyên tử bằng trung hòa tử, một điều
mà Tây không làm.
Phương cách khác, không phải bằng cách tra cứu sách vỡ
vì sách vở về âm vị tiếng Việt rất hiếm hoi, mà tìm
kiếm Vietnamese phoneme trên Internet bằng máy rà tìm Goeglẹ
Có nhiều trạm mạng về Chinese phoneme nhưng chỉ có một
bài của ngừơi Việt về âm vị VN.
Vài bài của người Trung Hoa viết về âm vị tiếng Việt
!!!
Bài của tác giả Taiffalo thì khá rõ ràng gồm có bốn bài,
nghiên cứu và phân tích âm vị tiếng Việt thuộc, tác
giả cũng cho rằng tiếng Việt phát âm miền Bắc gồm có
36 âm vị và phân chia như sau :
19 phụ âm
b , /c/ chết , /d/ (đi), /f/ phở, g , h , /k/ (C, K, Q như quít
kia cà), l , m, n , nh , /ng/ (nghi ngờ), p (pin), /s/ (cả x lẫn
s như xứ sở), t, /th/ , /v/, /x / (khí), /z / (gi và r như ra
gì)
11 nguyên âm
i /i/ lính biết, đi chịu
ê /e/ ếch hiểu hết
ư / / tư người
ơ /F/ chợ sớm
u /u/ chụp chum
ô /o/ tôi buồn quốc hôm
e /E/ meo
o / / ngon
a /a/ bài làm
ă /ce/ ăn
ay /A/ may phay
Tổng cộng có 36 âm vị = 6 thanh+19 phụ âm + 11 nguyên âm
Cuối cùng rồi cũng tìm ra được đâu là âm vị tiếng
Việt. Như vậy là nhất quá tam, cả ba học giả gạo cội
đều nhất trí về cùng con số 36. Tuy thế nhưng xác
suất đúng có thể không cao vì chưa được chọn lựa
một cách ngẫu nhiên vì có thể cả ba học cùng một sách
vở hay thuộc cùng một trường phái cổ điển, không coi
các nhị trùng âm và tam trùng âm là âm vi Họ đồng nghĩa
âm vị với chữ cái, cộng thêm các dấu ă,â,ô,ơ,ư,ê
và 6 thanh thành 36 âm vi Phải chăng các nhà ngôn ngữ này
có nhận định đúng hơn các nhà ngôn ngữ học Tây
phương?
Bài duy nhất của người Việt trên Internet không đề
xuất xứ cho rằng tiếng Việt miền Bắc có 44 âm vị
gồm có 6 thanh, 22 phụ âm (không có r, tr,s, giống như
nhận định của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Đình Hoà nói ở
dưới), 13 nguyên âm, 3 nhị trùng âm (có nhị trùng âm
nhưng quá ít). Vì phần liệt kê bị để trắng nhách
không nhìn thấy gì cả nên cũng không có cách gì để phê
phán.
Muốn biết các nhận định của người Trung Hoa về ngôn
ngữ Việt có chính xác hay không, ta hãy xem người Trung
Hoa khảo cứu âm vị tiếng Trung Hoa như thế nào để thẩm
định khả năng của ho
Âm vị tiếng Hán
Một bài khảo cứu rất công phu của Chinese Accademy of
Sciences ở Beijing lốt xuống (download) từ Internet cho rằng
-tiếng Trung Hoa có 140 âm vị với thanh sắc (Chinese has 140
phonemes considering tone)
-Tiếng Trung Hoa có 405 âm tiết không thanh sắc (Chinese has
405 syllables without tone (C+V or C+V+Nasal).
-Tiếng Trung Hoa có số âm tiết với thanh sắc khoảng 1300
(Chinese has a limited number of syllables about 1,300 considering
tone)
Viện ngôn ngữ BK có nhận định sai lầm là sát nhập
thanh sắc vào âm vị chớ không coi thanh sắc là âm vị (Xem
phần thanh sắc ở dưới). Vì số âm vị được nhân với
5 thanh nên tổng số âm vị trở thành 140 âm vị, đứng vị
trí number one trên thế giới, qua mặt cả tiếng Việt Thái
Khmer! Điều này khó có thể là một hiện thực.
Các nhà ngôn ngữ học Trung Hoa định nghĩa âm vị khác,
mỗi người một ỵ Một học giả khác cho rằng tiếng Trung
Hoa có 45 âm vị như sau :
5 thanh không sắc hỏi huyền nặng
25 phụ âm:
b p m f d t n l g k h j q x zh ch sh r x c s @ (th) y w yu
15 nguyên âm:
a o/e ai ei/ie ao ou an en ang eng ong I u u" er Tác giả coi nhị
trùng âm là âm vi Có sự nhầm lẫn là các âm an, en, ang,
eng, ong không phải là âm vị mà là âm tiết. Ang là một
âm tiết gồm có hai âm vị a và ng. Như vậy tiếng Trung
Hoa chỉ có 10 nguyên âm.
Thay vì có 25 + 15 + 5 = 45 âm vị tiếng Trung Hoa có tổng
số âm vị là 25 phụ âm + 1 (ng) + 10 nguyên âm + 5 thanh = 41
âm vị, ở vị trí trung bình.
Con số 41 cũng còn nhiều hơn số âm vị tiếng Việt, một
điều khó có thể xãy ra vì tiếng Việt có số âm tiết
gắp 20 lần tiếng Hán nên không thể nào có số âm vị
ít hơn được.
Muốn biết sự thật như thế nào thì không còn cách nào
khác hơn là phải xem xét lại thật cặn kẽ các định nghĩa
về nguyên âm và âm vị .
Các định nghĩa cơ bản
Các định nghĩa dưới đây về phoneme, syllable, word được
phối hợp và điều chỉnh lại từ nhiều tự điển tiếng
Anh. Ngay cả các định nghĩa trích từ các tự điển to tổ
bố này cũng không thật chặt chẽ, đâu ra đấy mà
thường là để lững lơ như con cá vàng, ai hiểu sao thì
hiểu và do đó dễ gây ra ngộ nhận. Sẽ đưa ra định
nghĩa Nguyên âm. Sau đây là vài định nghĩa của nguyên âm
từ nhiều tự điển:
+Một đơn vị nhỏ nhất của lời nói có thể làm thành
một tiết.
+Một đơn vị nhỏ nhất của lời nói có thể tự thành
hình bằng một luồng hơi thở liên tục và cũng có thể,
tự mình, làm thành một tiết.
+Tiếng nói tạo bởi sự rung động của dây phát âm nhưng
không có sự cọ sát nghe được.
Tóm lại ""Nguyên âm là đơn vị nhỏ nhất của lời nói,
phát âm liên tục, có thể tự làm thành một tiết""
Từ oai có bao nhiêu nguyên âm? Các nhà ngôn ngữ học Việt
và Trung Hoa cho là có ba nguyên âm là o, a và i nhưng theo
định nghĩa trên thì chỉ có một nguyên âm duy nhất vì
từ oai phát âm liên tục chớ không bị đứt đọan.
Phụ âm còn được gọi là tử âm (consonant, có nghĩa là
hoà hợp tiếng), một tiếng khi thành lập một tiết phải
kết hợp với nguyên âm nghĩa là tự một mình nó không
thể tạo ra một âm được như các âm t, m, k. Bán âm là
âm nằm giữa nguyên âm và phụ âm nghĩa là phát âm như
nguyên âm nhưng phải đi kèm theo nguyên âm. Tiếng Anh có
hai bán âm /j/ ( phát âm giống y, như young hay D nhẹ miền
Nam) và /w/ (phát âm gần với giống u, như with). Tiếng
Pháp có ba bán âm là /j/, w và /hui/ như trong huit (tám).
Tiếng Việt có bán âm w như quà (wà, miền Nam) và Y ký
hiệu là /j/ đọc như D nhe
Một cán bộ nói joke (dốc) với dân miền Nam "Nông
trường ở miền Bắc rất rộng, ruộng của công tử Bạc
Liêu đem so thì chẳng thắm vào đâu. Công nhân thường
thức dậy vào lúc 5 giờ sáng, lái xe cả ngày, tới chiều
tối may ra mới đi hết nông trường" Một nông dân miền
Nam suy nghĩ hồi lâu rồi trả lời:"Chúng tôi đôi khi cũng
có một chiếc xe như thế" Nguyên âm kép (Nhị trùng âm,
diphthong): còn gọi là nguyên âm lướt tức là gliding vowel,
một âm thay đổi phẩm chất trong một tiết đơn độc.
Âm bắt đầu từ một nguyên âm và chuyển sang một
nguyên âm khác. Thí dụ như ấy, oi, hao, biu, hia, toát, ai,
tâu, tương.
Nguyên âm ba (tam trùng âm, triphthong) như khuya, tươi,
tuyên.
Tiếp tố (Affixation) : prefix tiền tố, suffix hậu tộ
Tiếng Việt không có tiếp tố nên ta khỏi mất công khảo
cứu.
Âm vị (phoneme): Đây là một trong những từ khó định
nghĩa cho thật chặt chẽ và rõ ràng. Nhiều tự điển Anh
ngữ có một định nghĩa khác nhau như dưới đây
+Đơn vị nhỏ nhất của một ngôn ngữ có thể truyền đạt
một ý nghĩa cá biệt, như m của mat và b của bat.
+Đơn vị của tiếng nói cá biệt từ đó âm tiết được
thành hình.
+Âm vị là tiếng nhỏ nhất (smallest sound) trong ngôn ngựõ
+Đơn vị âm thanh không thể phân tích thành đơn vị nhỏ
hơn (mà không làm thay đổi nghĩa của tự
+Đơn vị nhỏ nhất của tiếng nói trong một ngôn ngữ có
thể làm phân biệt hai từ như pan và ban.
+Âm vị là đơn vị nhỏ nhất một đơn vị cơ bản và lý
thuyết của tiếng nói của âm có thể làm thay đổi nghĩa
của một tự Tùy theo ngôn ngữ và tùy theo chữ cái, âm
vị có thể được viết bằng một chữ cái, có nhiều
trường hợp ngoại lệ (nhất là trong tiếng Anh).
+Đơn vị nhỏ nhất của âm trong một ngôn ngữ, và là
thành phần cấu tạo tiết, như đơn vị ba thành phần (phụ
âm, nguyên âm, phụ âm) mà sự thay đổi sẽ làm thay đổi
nghĩa của từ (word), như làm phân biệt hai từ ban và van,
chỉ khác nhau bởi hai nguyên âm b và v, và được gọi là
âm vị,và ban và bin, chỉ khác nhau ở nguyên âm /a/ và /i/,
cũng được gọi là âm vị, tiếng Anh bait là một đơn âm
có ba âm vị b, ai (ghi âm là ei) và t.
Vài định nghĩa để lơ lững ai hiểu sao cũng được nên
nhiều học giả, ngay cả các tiến sĩ ngôn ngữ học, cũng
bị nhầm lẫn để rồi đem phân tích các trùng âm thành
nhiều nguyên cơ bản và kết luận tiếng Việt có 36 âm
vị và tiếng Tàu có 140 âm vi
Âm vị được định nghĩa tổng hợp lại như sau:
""Âm vị là một đơn vị nhỏ nhất và liên tục của tiếng
nói, làm phân biệt các từ, từ đó tiết được thành
lập""
Trùng âm có phải là âm vị hay không?
Cái mấu chốt của vấn đề là ở chỗ các nhị và tam
trùng âm là một âm vị hay tập hợp nhiều âm vi Trường
phái cổ điển không công nhận trùng âm là âm vị .
Trường phái Tây phương coi mỗi trùng âm là một âm vi
Quan niệm cổ điển không đúng vì các lý do sau đây :
-Nếu chúng ta đã khẳng định các phụ âm kép đầu từ
/th/, /ng/, /nh/, /kh/ là âm vị thì sẽ không nhất quán nếu
chúng ta không công nhận các trùng âm là âm vi Phụ âm và
nguyên âm đều có tác động như nhau trong sự thành lập
âm vị . -Mỗi âm vị phải được phát âm một cách liên
tục, nói khác đi âm vị không thể đập vỡ ra cho nhỏ hơn
nữa mà không làm thay đổi nghĩa của tự Thí dụ âm Ía
không thể phân tích thành hai âm Í và a vì như thế sẽ
có nghĩa khác như câu
"Cô Thúy uể oải tới Chú Ía hát hò"
nếu tách rời các trùng âm thì sẽ có nghĩa hoàn toàn
khác hẳn là
"Cô Thú-y ủ-ê o ai ? Tới Chú, í-a hát hò"
-Bây giờ ta hãy dùng lý luận để xem các trùng âm có vị
trí như thế nào trong văn phạm. Lấy thí dụ âm "oai" trong
từ ngoái là từ, âm tiết hay âm vị .
Rõ ràng oai không phải là từ vì ngoái mới là tự oai
cũng không phải là âm tiết vì ngoái mới là âm tiết.
Còn nếu ta phân tách thành ngó-ai thì từ sẽ có hai âm
tiết ngó và ai. Điều này mâu thuẩn với sự thật không
chối cải được là ngoái chỉ có một âm tiết. Đó là
chưa kể phân tích như thế sẽ làm thay đổi nghĩa của
từ, điều này không được làm. Không phải là từ, không
phải là âm tiết, cũng không thể phân tích ra nhỏ hơn nên
oai phải là âm vị, không còn con đường nào khác để
chọn lựa .
-Tách rời các trùng âm là trái với quan điểm của các
nhà ngôn ngữ học Tây phương khi nghiên cứu ngôn ngữ Á
Châu. Các nguyên âm ghép sau đây đều được coi là vowel
hay phoneme : ai, ao, ưa, ia, iu, uay, nguyên âm dài như uu trong
tiếng Thái hay ai,ao,ay,oa trong tiếng Khmer hoặc ai,au trong
tiếng Indonesia .
Tách rời các trùng âm sẽ làm thay đổi ý nghĩa của một
câu nói, tương tự như cách chấm câu . Một Giáo thụ
(Professor) ngôn ngữ học viết một số từ lên bảng
""Đàn bà không có đàn ông là con số không"" rồi ra
lệnh cho sinh viên chấm câu cho đúng.
Con trai viết :""Đàn bà, không có đàn ông, là con số
không""
Con gái viết :""Đàn bà không có, đàn ông là con số
không""
Đa hệ viết : ""Đàn bà không, có đàn ông, là con số
không""
-Cứ cho là các học giả Tây không rành ngôn ngữ Á Châu
nên xếp sai các trùng âm vào âm vị đi nữa, nhưng tại sao
bốn nhị trùng âm tiếng Anh, tương đương với bốn âm
tiếng Việt, đều được đặt trong bảng âm vị ?
Thật vậy theo bảng Amercan English Phoneme Representation thì
tiếng Anh có 40 âm vị phân chia ra như sau :
24 phụ âm
15 nguyên âm gồm có 11 nguyên âm đơn (monothongs), 4 nguyên
kép (dipthongs, đó là /aw/ trong bout, /ay/ trong bite, /yu/ trong
butte hay tiu nguỷu, /oy/ trong boy) và
1 untressed âm /er/ như trong banana .
Nếu nhị trùng âm là âm vị thì đương nhiên các tam trùng
âm trong tiếng Việt phải được coi là âm vị .
-Nhiều âm tuy ghi giống hệt nhau nhưng đọc khác nên số
âm vị phải khác nhau. Thí dụ seatle, vì đọc là si- ê -
thầu nên ea có hai âm vị e và a nhưng seat vì đọc là si:t
nên ea chỉ có một âm vị .
Tùy theo ngôn ngữ và chữ cái, âm vị có thể được
viết bằng một chữ cái nhưng cũng thường được viết
bởi nhiều chữ cái như âm vị eau trong beauty tiếng Anh hay
iêu trong biêu tiếng Việt.
Không phải khi viết ba nguyên âm kề nhau như are là có ba
âm vi Âm are chỉ có một âm vị với ký hiệu áÿ Bought chỉ
có bốn âm vị là b, ao, t và dấu nhấn, gh không tính vào
âm vị, theo một bộ tự điển tiếng Anh.
Thanh sắc : Thanh sắc được đo lường bằng tần số
(Hz). Cái gì làm cho má khác với má, ma, mã, mả, mạ ? 'ÿó
là thanh sắc. Vì âm vị là một đơn vị âm thanh làm phân
biệt các từ với nhau nên thanh sắc là âm vị chớ không
phải là một thành phần của âm vị như viện ngôn ngữ
học Bắc Kinh đã phân loại như trên.
Số thanh thay đổi từ 4 đến 8 như tiếng BK có 5 thanh,
tiếng Q'ÿ tự xưng là có 8 thanh, điều này cũng nên xét
lại vì nhiều thanh chính người Q'ÿ cũng không phân biệt
được. Tương tự chỉ có 50% dân miền Bắc là phát âm
đúng hỏi ngã theo một kết quả của một học giả khi phân
tích âm thanh của một số người, 50% còn lại phát âm
dấu hỏi gần như là dấu nặng, dấu nặng thành lơ
lững, dấu ngã gần dấu sắc.
Muốn cho từ ngữ không lẫn lộn thì 5 thanh như tiếng
Thái là mức tối đa (làm sao qua mặt được thanh sắc
tiếng Thái, được coi như phát xuất ra thanh sắc tiếng
Việt và Tàu?), nhiều hơn thì chữ tác đánh chữ tộ,
chính ngay dân địa phương còn không phân biệt được thì
nói gì đến những người thuộc miền khác, họ nghe không
quen thì tưởng là bỏ dấu sai. Khi có nhiều sắc tộc
cùng xữ dụng một ngôn ngữ thì ngôn ngữ sẽ từ từ
trở nên giản dị, dễ hiểu, dễ phát âm như tiếng BK đã
tự động đào thải nhiều âm phức tạp hay tiếng Sanscrit
đã giản dị hóa để trở thành tiếng Ấn hiện tại .
Tiếng Mã Lai, Tây Tạng, Mon có âm điệu nằm giữa dấu
nhấn và thanh nghĩa là khá quan trọng, không phải là không
có cũng không sao như tiếng Anh.
Mẫu tự Latin. Tập hợp 26 âm vị cơ bản nhất gồm có 5
phụ âm a, e, i, o, u và 21 phụ âm, đủ để ghi tòan bộ âm
vị tiếng Latin nhưng không đủ để ghi hết tất cả các
âm vị của mọi ngôn ngữ .
Số âm vị không căn cứ vào số nguyên âm hay phụ âm.
Tổng số âm vị của một ngôn ngữ có thể nhiều hơn hay
ít hơn tổng số 26 chữ cái Latin. Một âm vị có thể
dùng một hay nhiều chữ cái để tượng trưng.
Từ 26 chữ cái ta có thể ghi hằng trăm âm vi Từ số âm
vị ta có thể ghi hằng chục ngàn âm tiết. Tiếng Hán có
41 âm vị và 1347 âm tiết. Vì chữ Hán ghi âm tiết nên
tối thiểu cũng phải có hằng ấy chữ tượng hìmh. Nhưng
số từ cần thiết dùng trong văn hóa kỹ thuật cần ít
nhất hằng chục ngàn từ nên không thể tránh được mỗi
từ có rất nhiều từ đồng âm. 'ÿể tránh từ nọ đọ
với từ kia họ phải sáng chế nhiều chữ Hán khác nhau cho
mỗi từ đồng âm, vì thế có chừng mười ngàn chữ Hán
cho hơn một ngàn âm tiết. Muốn đọc được sách báo
phải cần hơn hai ngàn chữ và mất khoảng bảy năm.
Chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự Latin để ghi âm vị và tổng
số âm vị tiếng Việt là 81 nên học rất dễ trung bình
chừng hai tháng. Làm một con tính ta thấy ngay nếu phải
học 2000 chữ Hán thì thời gian là (2000: 81) x 2 = 49 tháng
hay 4 năm. Còn nếu phải học 10000 chữ thì thời gian dài
gắp năm lần tức 20 năm.
Bỏ ra 20 năm chỉ để học chữ Hán thì hơi phí của. Thời
gian dài đăng đẳng này có thể dùng để lấy được
mấy cái bằng Tiến sị Thời cổ văn minh Trung Hoa rất
xán lạn nhưng dần dần đứng khựng lại trong khi Tây
phương phát triển mạnh mẽ, có thể một phần là lối
chữ tượng hình, tuy có điểm lợi là thống nhất
được nước Trung Hoa nhưng đồng thời một phần nào
đó đã ngăn cản sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật.
'ÿể ghi tiếng nói người Nhật dùng chữ chữ Hán và
chữ Nhật. Cả hai ghi âm tiết nhưng vì tiếng Nhật chỉ
có 140 âm tiết nên chữ Nhật chỉ cần bằng ấy chữ
viết.
Tiếng Việt phức tạp hơn nhiều vì có số âm tiết
khổng lồ khỏang 18000, tạm gọi là đủ để diễn tả mọi
sự việc thông thường mà không bị làm khó hiểu bởi
từ đồng âm và do đó có thể dùng chữ cái Latin để
viết rời từng từ một cách dễ dàng, rõ ràng và gọn
ghẹTrái lại nếu ta dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt thì
sẽ gặp muôn vàn khó khăn, như chữ Nôm chẳng Hạn khó
học khó nhớ hơn cả chữ Hán vì phải nhớ tới 18000 chữ
khác nhau .
Ngôn ngữ có thể có từ 2 tới 25 nguyên âm, và 5 tới 100
phụ âm (độ chừng, có ai biết chính xác là bao nhiêu
không?). Tổng số âm vị trong mỗi ngôn ngữ thay đổi từ
ít nhất là 11 trong tiếng Rotokas (Papa New Guinea), 12 trong
tiếng Hawaiian tới nhiều nhất lên đến 141 của bộ lạc
!Xu ở Phi châu. Xin kể thêm vài trường thái quá như có:
2 nguyên âm trong vài phương ngữ của tiếng Abkhaz 3 nguyên
âm trong nhiều tiếng dân da đỏ Mỹ châu, Á Rập hay Úc
đen
25 nguyên trong tiếng Punjabi
6 phụ âm trong tiếng Rotokas
Hơn 100 phụ âm trong tiếng Xu
Ta thấy có sự tương tự giữa Vật lý và ngôn ngự Phân
tử, nguyên tử và hạch nhân tương ứng với từ, âm
tiết và âm vi Từ gồm một hay nhiều âm tiết giống như
phân tử cấu tạo bởi một hay nhiều nguyên tự Nguyên
tử có thành phần là hạt nhân tương ứng âm tiết có
thành phần là âm vị .
Tưởng cũng nên lập lại vài định nghĩa để dễ bề so
sánh :
Phân tử (molecule) : mãnh nhỏ nhất (thường là một nhóm
nguyên tử) của vật chất được làm cho nhỏ hơn bằng
cách phân chia mà không làm thay đổi đặc tính hoá học.
Nguyên tố (element) : Chất không thể phân giải được
thành chất đơn giản hơn bằng phương tiện hoá học.
Nguyên tử (atome) : phần tử nhỏ nhất của nguyên tố hoá
học hay là phần nhỏ nhất của vật chất không thể chia
nhỏ hơn nữa bằng phương tiện hoá học.
Hạch nhân (nucleus) : Hạt nằm ở trung tâm nguyên tử gồm
có proton và neutron. Âm vị là cái mầm, cái lỏi, cái cốt
lỏi, cái cùi, cái ngòi, cái hạt nhân hay hạch nhân của
tiếng Việt.
Và cũng giống như sinh vật, mọi sinh vật ngoài một số
gen riêng biệt còn có một số gen chung với các giống
khác. Ngôn ngữ cũng thế, kể cả tiếng Việt, ngoài một
số từ riêng tư cho từng ngôn ngữ còn có một số từ
chung cho toàn thể tiếng nói của nhân loại. Tiếng Việt
chứa nhiều tiếng Anh từ thời tiền sử cũng là chuyện
thường tình, không có mới là quái la Nếu DNA có thể
được dùng để tìm nguồn gốc người Việt thì ngôn
ngữ cũng rất hữu dụng trong công cuộc truy cứu gốc
tích người Việt nói riêng và Bách Việt nói chung.
Allophone (âm vị giống) là biến thể của âm vi Allophone
của miền này có thể là phoneme của miền khác. Ch và Tr
là allophone của miền Bắc nhưng là phoneme của miền Trung
và Nam. Tương tự n và ng cuối âm tiết là âm vị miền
Bắc nhưng là allophone của miền Nam. Câu ""Chị Lan than thở
trên thang"" nếu ở miền Bắc thì trở thành ""Chzị Lan
zầu zĩ than thở chzên thang"" còn miền Nam sẽ là ""Chị
Lang rầu rỉ (dấu hỏi) thang thở trên thang"" Morpheme (hình
vị) là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa (a word or meaningful
part of a word for instance 'thé, 'speak' or the 'en' of 'spoken')
như là một cơ bản (base), tiền tố hoặc hậu tố .
Một từ có thể chứa hơn một hình vi "Unable" có thể
chia thành hai hình vị- tiền tố "un" và "able", trong khi đó
"mahogamy" không thể chia nhỏ được nữa. Tiếng Việt
không có tiếp tố nên không có hình vị và mỗi từ đa
số chỉ có một âm, ngoại trừ một số ít từ đa âm
tiết như sa-vông, lông bông, cà nhổng, ba bả .
Vì ngôn ngữ học rất rắc rối và khó hiểu nên ít
người chú ý tới và do đó số học giả ngôn ngữ học
rất hiếm, đếm được trên đầu các ngón tay của một
bàn tay. Nếu người nào để ý nghiên cứu thì lại hiểu
vấn đề một cách lộn xộn, kể cả những nhà ngôn ngữ
học. May ra thì mấy nhà toán học mới hiểu thấu mọi gút
mắc của vấn đề nhưng mấy ông này còn lâu mới rớ
tới vì đâu phải là nghề của chàng. Mà có muốn cũng
không được.
Sau khi đã trang bị đầy đủ các định nghĩa thì bây giờ
là lúc ta thẩm định lại số âm vị tiếng Việt.
Âm vị tiếng Việt
Nếu ta theo đúng định nghĩa Tây phương về âm vị và
phân tích theo các nhà ngôn ngữ Tây phương về nguyên âm
thì tiếng Việt có rất nhiều âm vi Xin liệt kê âm vị
tiếng Việt phát âm miền Bắc như sau:
6 thanh điệu: không, sắc, huyền, hỏi, nặng, ngã 20 phụ
âm (ký hiệu phát âm được ghi trong hai gạch //, nhưng
để giản dị, không ghi ký hiệu nếu phát âm trùng với
chữ cái).
B, /K/ (C vàK), /Chz/ (CH và Tr miền Bắc), /d/ ('ÿ), /G/ (G và
Gh), H, Kh, L, M, N, Ng (Ngh), Nh, P (Phụ âm đầu từ P là âm
cổ nay dần dần phục hồi trở lại như pông sô, pia nô,
pin), /Kw/ (Qu như quít), /F/ (Ph), T, Th, V, X, /Z/ (D, R, Gi
miền Bắc).
Miền Nam có thêm 7 phụ âm Ch, Tr, R, S, J (/ / như Jarai, jăm
bông, ăn jơ), Y (Y, ghi âm quốc tế là /j/, là phụ âm
đầu từ D nhẹ miền Nam và dùng cho các từ ngoại quốc
như đồng Yen, ya ua, yo yo, yoga), W (Qu, oa, Hoa), nhưng không
có âm Chz, Z, Kw, V.
Tổng số phụ âm của phát âm miền Nam là 20 - 4 + 7 = 23.
Tổng số phụ âm cho mọi phương ngữ là 20 + 7 = 27 'ÿến
đây ta mới thấy sự khó khăn và tài tình của các nhà
tiền phong khi sáng tạo chữ Quốc ngự Họ phải suy nghĩ
nhiều cách để cả ba miền cùng xữ dụng một thứ chữ
nhưng có thể đọc theo phát âm của mình, tương tự như
Hán tự dùng cho mọi sắc dân Trung Quốc.
Các ca sĩ trẻ nước ngoài phát âm Ch thành Chs tương tự
như âm Ch tiếng Anh, nghe rất kỳ lạ và ngộ nghĩnh y như
Mỹ nói tiếng Việt, lơ lớ giọng mũi .
Liệt kê các âm vị rất khó khăn nên mỗi người một ý
kiến. Như Giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn 'ÿình Hòa trong
"Tiếng Việt không son phấn" cho tiếng Việt gồm mọi
phương ngữ có 22 tử âm, thể theo một bài lấy từ
Internet ""'ÿáng lưu ý là bảng liệt kê 22 âm vị tử âm
(consonant phonemes) dùng trong mọi phương ngữ VN -- bằng ký
hiệu như /b-/, /f-/, /z-/, vân vân -- có thể đứng đầu
các âm tiết, cùng với những chữ cái trong mẫu tự
Việt được dùng để biểu hiện những âm vị này. Thí
dụ, âm vị /k-/ thường được biểu hiện bằng những
chữ cái c-, k-, q- (con cá, cái kim, quả cam) (trang 20). Biểu
đồ của 6 thanh điệu (trang 20) cho người đọc thấy rõ
độ cao thấp cùng với đường uốn lượn của từng thanh
điệu""
22 phụ âm là gồm cả R, Tr, S. Không có nên không biết GS
cho biết có bao nhiêu nguyên âm.
Ch và Tr ở miền Bắc hơi nặng phát âm thành chz, không
có âm J nhưng có âm nặng hơn Gị Vì thế các âm J đều
bị thay thế bởi âm Gi như Jarai, Java, jăm bông, nạc jăm
biến thành Gia Lai, Gia va, giăm bông, nạc giăm. Gi không
phải là một âm gồm hai âm vị G và I mà là một vị duy
nhất /z/. Âm Gi có nguồn gốc xa xưa từ âm /ji/ tiếng
Hán, ngày nay chỉ một số nhỏ đọc đúng Gi, còn đa số
đọc là /z/ nên ta có thể cho nhập chung vào âm vị /z/.
Tương tự Qu không phải tạo thành bởi hai âm vị mà là
một âm vị duy nhất /kw/ , khác biệt với âm vị /k/ (phụ
âm c). Quả cam không phải là /k/ủa cam -vì như thế sẽ đọc
là của cam- mà là /kw/ả cam. Tương tự quốc là /kw/ốc
chớ không phải là /k/uốc vì như thế sẽ đọc là cuốc
(xuổng). Sở dĩ các nhà tiền phong không dùng Kw mà dùng
Qu để ba miền đều đọc được theo đúng phát âm của
mình. Qu đọc là /kw/ như trong từ quit tiếng Anh. Tiếp theo
là nói về nguyên âm.
11 nguyên âm đơn (monothong): a, ă, â, e, ê, i (y), o, ô, o,
u, u
28 nguyên âm kép (diphthong, nh? trùng âm) : ai, ay, ây, ao, au,
âu, eo, êu, ia, iu, iê, oa, oa, oe, oi , ôi, oi, ua, uâ, uê, ui,
uô, uy, ua, ui, uo, uu, iạ
9 nguyên âm ba (triphthong, tam trùng âm): iêu, oai, oay, uây,
uôi, uoi, uou, uya, uyê
Tuy tên gọi là tam trùng âm nhưng nhiều khi chỉ là nhị
trùng âm dài. Thí dụ như uôi là uui, ươi là ư ư i,ươu
là ưưu.
Tổng số nguyên âm là 11 + 28 + 9 = 48
Miền Bắc có 6 thanh +20 phụ âm + 48 nguyên âm = 74 âm vị,
bằng với số âm vị tiếng Thái.
Miền Nam có 5 thanh +23 phụ âm + 48 nguyên âm = 77 âm vị,
Tiếng Việt chung cho mọi phương ngữ có = 74 + 7 = 81 âm vị
.
ể tiện so sánh xin ghi lại (pâ là phụâm, nâ là nguyên
âm) các nhận định của
Tiến sĩ 6 thanh +19 pâ+11 nâ đơn= 36 bài Internet 6 thanh +22
pâ+ 13 nâ đơn+ 3 nâ kép = 44
Tiếng Thái 5 thanh +21 pâ +48 nâ =74 âm vị Tiếng Khmer 33 pâ
+ 24 nâ =57 âm vị
Tiếng Anh 24 pâ+11 nâ đơn+4 nâ kép+1 untressed âm= 40 âm vị
Tiếng Việt 6 thanh+23 pâ+11nâ đơn+28 nâ kép+9 nâ ba= 81 âm
vị
Số âm vị phù hợp với dự đoán là tiếng Việt phải có
số âm vị bằng hay nhiều hơn số âm vị tiếng Khmer (57)
hay tiếng Thái (74) và nhiều hơn hai lần tổng số 36 âm
vị do các nhà ngôn ngữ học Việt và Trung Hoa gán cho
tiếng Việt. Tiếng Việt có ít phụ âm nhưng có rấtù
nhiều nguyên âm. Miền Nam tuy có âm vị nhiều hơn miền
Bắc nhưng có ít âm tiết hơn vì không phân biệt được
các phụ âm cuối từ như lan với lang, tiếc với tiết,
hoa với qua và oạ
Nếu kể thêm nhiều phụ âm kép đầu từ Bl, Dr, Pl, Fl, Fr,
Ge đã được áp dụng vào khoa học kỹ thuật hoặc trong
các từ Việt hoá như blốc nhà, dra trải giường, Pleiku,
platin, miếng plắc mạ vàng, fluor, Freon, bẹt gê, gen nhiểm
sắc thể, mà thời tiền sử đã từng hiện diện trong
tiếng Việt thì tổng số âm vị tiếng Việt còn cao hơn
nữa, gần con số 90. Nhưng thôi, như thế là quá đủ để
chứng minh số âm vị tiếng Việt trội hẳn số âm vị mà
các nhà ngôn ngữ học Ta và Tàu đã gán cho tiếng Việt.
Nếu đếm theo kiểu Trung Hoa tức là nhập thanh sắc vào
âm vị thì tổng số âm vị tiếng Việt là (81- 6)x 6 = 450.
Số này quá cao, và không ai đếm lọa kỳ như thệ Xem ra
thì ngôn ngữ học rất khó hiểu nên ngay cả viện ngôn
ngữ học cũng sai lầm như thường.
Một số câu hỏi mà thầy giáo không muốn gặp : -Tại sao
âm học không đánh vần theo cách phát âm như Y được ghi
âm là /j/ ?
-Tại sao monosyllabic chỉ từ đơn âm sao lại có 5 âm tiết ?
-Tại sao ề li 24 giờ, 365 ngày một năm mà lại có ổ
khoá ?
-Tại sao vô giá trái ngược với vô giá trị hay không giả
- Nếu xe chạy nhanh bằng tốc độ ánh sáng, cái gì xãy ra
nếu ta vặn đèn sáng lên ?
Âm R trong tiếng Việt cổ
Có người cho miền Bắc thời cổ không có âm R. Nếu
không xem xét kỹ ta thấy nhận xét này không phải là không
có lý vì các ngừơi bạn láng giềng như Lào, Miến iện
và mọi loại người Tàu đều không có R.
Thực sự thời tiền sử người Văn Lang đã phát âm R,
có thể giống âm R của phát âm miền Trung hay âm R của
Khmer, hơi khác với miền Nam. Ở miền Trung âm khi phát ra
âm R thì lưởi chạm vào bên trên phía trong, phát âm lăn
tròn (rolling) gần âm R tiếng Anh còn miền Nam thì lưỡi
ở phía ngoài gần âm R tiếng Pháp. Âm R Khmer thì lưỡi
run động nhiều hơn.
Âm R Miền Bắc bị biến mất là do ảnh hưởng phát âm
Bắc Kinh. Thật vậy có nhiều từ cổ miền Bắc vay
mượn tiếng Mã Lai có âm R như co ro tiếng Mã Lai dùng
để chỉ con rùa, rông chơi là do ronda tiếng ML, rổng là
do rongga tiếng ML và râng tiếng Khmer.
Cứ cho là người Việt thời tiền sử không có âm R và
sau đó đã vay mượn tiếng ML từ thời Văn Lang đi, nhưng
ta không thể giải thích được tại sao lại có những từ
trùng hợp với tiếng Khmer mà ta chỉ mới tiếp xúc với
họ từ thế kỷ 17, như ruồi là do ruôi và rượt là do
rươt tiếng Khmer? Còn nữa, tại sao có nhiều từ trùng
với tiếng Mon như rồi là rà, mưa rào là pròa mà ta
không bao giờ tiếp xúc với ho Chỉ có thể giải thích là
tiếng Việt có âm R từ thời tiền sử và tiếng Việt
có liên hệ với tiếng Mon Khmer và Mã Lai. Âm R bị biến
mất dưới thời Bắc thuộc vì vùng Hà Nội bị ảnh
hưởng nặng nề của phát âm Bắc Kinh. Và không phải mọi
người Bắc đều không nói được R. Có nhiều vùng miền
Bắc xa trung ương dân chúng nói ra R khá rõ, có khi còn rõ
ràng hơn cả miền Trung và Nam.
iều đáng chú ý là âm R hầu như hiện diện trong mọi
ngôn ngữ chỉ trừ ngữ tộc Sino-Tiberto, Lào và miền
Bắc. Tiếng Thái trên nguyên tắc có âm R nhưng người
Thái thường nói thành L. Lý do là một số người Thái
từ Vân Nam tràn tới Thái Lan chiếm đất của người Mon
Khmer vào thế kỷ thứ 13 không có R như người Lào. Phát
xuất từ bên Tàu thì đương nhiên không có R. Còn người
Thái củ hay có học Phạn ngữ, cùng với người Mon và
người Khmer gần ranh giới Campuchia thì có R. Các tiếng
nói thuộc ngữ tộc Sino-Tiberto như tiếng Tàu (mọi loại),
tiếng Tây Tạng và Miến iện đều không có R nhưng lại
có âm Z, tương tự như phát âm miền Bắc.
Ngữ hệ tiếng Việt
Như vậy có phải là tiếng Việt thuộc ngữ tộc
Sino-Tiberto như vài học giả đã và đang đưa ra giả thuyết
này ? Nếu cho là không thì tại sao một số âm miền Bắc
lại gần với phát âm Hán Tạng? Câu trả lời là sỡ dĩ
phát âm giống tiếng BK là do bị ảnh hưởng tiếng BK cả
về từ ngữ lẫn phát âm.
Các âm R, Tr và cả các âm W, phụ âm đầu từ Y, Dr, Pl, Pr,
Fl, Fr và nhiều phụ âm phức tạp đầu từ khác đã hiện
hữu trong phát âm người Văn Lang, nhưng dưới thời đô
hộ các âm trên đã bị âm Hán lấn áp. Cửu Chân và
Nhật Nam ít bị ảnh hưởng nên vẫn còn giữ được âm R,
Tr như ta đã thấy.
Có rất nhiều giả thuyết về ngữ hệ tiếng hệ, không
có giả thuyết nào đúng mà cũng không có giả thuyết nào
hòan tòan sai hẳn.
Tiếng Việt không thuộc ngữ hệ Hán Tạng nghĩa là không
có nguồn gốc Trung Hoa vì nhiều lý so như sau :
-Tiếng Việt có số âm vị gần với tiếng Thái và Khmer
hơn là tiếng Hán.
-Mặc dầu tiếng Việt có chứa hơn phân nửa tiếng Hán
Việt nhưng các tiếng Nôm lại trùng với ngữ tộc
Mon-Khmer và Thái hơn.
-Phát âm miền Bắc tuy gần giống phát âm BK, nhất là âm
Z, nhưng không vì thế mà ta có thể kết luận tiếng
Việt thuộc ngữ tộc Hán Tạng vì có nhiều âm vị mà
tiếng Hán không cọ
Một điểm đặc biệt của ngữ hệ Hán Tạng là chứa
rất nhiều từ có âm vị Z như tiếng BK có âm Z, Zh, Tz,
tiếng Tây Tạng có và âm giống Z như tso là hồ,
zing-kyong, tiếng Miến iện có Z, không R và Tr. Mã Lai có
một số âm Z. Các tiếng thuộc ngữ tộc Mon-Khmer và
Thái, Lào đều không có Z. Phát âm miền Bắc có rất
nhiều âm Z và không R. Phải chăng tiếng Việt thuộc ngữ
hệ Hán Tạng?
Không phải, tiếng Việt nhất định không phải thuộc ngữ
hệ Hán Tạng. Sau 1000 năm bị ảnh hưởng nặng nề của văn
hóa Trung Hoa, tiếng Việt khó có thể phát triển nhanh
chóng từ 41 âm vị sang 81 âm vị và từ 1347 âm tiết thành
18000 âm tiết, trừ phi là tiếng Việt lại chịu ảnh
hưởng nề của tiếng một nước khác. Lịch sử trong
thời kỳ độc lập không thấy nói người Việt bị
người Mon Khmer, Thái hay bất kỳ một nước nào khác đô
hô Tiếng Việt chịu ảnh hưởng tiếng Thái không phải
trong thời độc lập, và càng không phải trong thời Bắc
thuộc, mà phải trước hay chậm nhất trong thời Văn Lang
Âu Lạc.
Phát âm Hà Nội
Phát âm Hà Nội ngày nay nghiên về phát âm Thanh Nghệ
Tĩnh do dân chúng các nơi khác tràn vào thành phố nâng
mực độ từ 100000 lên hơn một triệu, phát âm Hà Nội
ngày xưa trở thành thiểu số, chỉ còn chừng 50000, có cơ
bị tuyệt giống. Như vậy phát âm Hà Nội xưa không phổ
quát, chỉ tập trung ở khu vực Hà Nội và vùng lân cận,
có thể không phải là phát âm nguyên thuỷ của người
Việt. Nếu là thế thì nó có nguồn gốc từ đâu? Có
thể từ phát âm BK chăng ?
Tiếng Việt bị ảnh hưởng nặng nề tiếng Hán về mặt
từ ngữ thì quá đã quá rõ ràng. Nếu ta cho rằng tiếng
Việt chỉ bị ảnh hưởng về mặt từ ngữ mà không bị
ảnh hưởng bởi phát âm BK thì là một chuyện hi hữu,
trái với đà phát triển tự nhiên. Một số âm Hà Nội
rất gần với phát âm Bắc Kinh như các âm rịu (rượu)
là do jỉu, không có âm R, Tr nhưng có nhiều Z (tiếng BK có
âm ghi là R nhưng lại có phát âm tương tự S với lưỡi
đụng vào vòm khẩu cái). Chỉ có dân chúng chung quanh Hà
Nội bị ảnh hưởng sâu đậm phát âm BK vì ngày xưa chỉ
có Hà Nội và Nam ịnh là có trường dạy và thi tiếng
Hán, do các giáo sư nguyên gốc giảng dạy nên dân chúng ở
đây giỏi tiếng Hán về cả từ ngữ và phát âm. Các vùng
khác chỉ học lóm hay do mấy Ông đồ lô can giảng dạy nên
phát âm sai giọng hay ít bị ảnh hưởng tiếng Hán. Chính
vì thế có thể dân ở khu vực xa trung ương còn giữ
được phần nào phát âm nguyên thủy của người Việt.
Miền Nam thì dốt đặc cán mai, một chữ Hán cũng không
có .
Cứ so sánh tên họ hai miền thì thấy rõ ngay . Tên họ
miền Bắc và Trung nghe rất văn chương tao nhã, đôi khi
quá Hán làm cho không ai hiểu nghĩa là gị Thí dụ như Cung
Tằng Tôn Nữ Trịnh Nhữ Như Thi made in Hòang gia, oàn Châu
Các Các made in phim Hongkong, Tăng Thiên Diệp made in China,
ặng Trần Quế made by Ông đồ tạ Hầu như không tìm
được ai có tên họ hoàn toàn tiếng Nôm ở Hà Nội, trừ
bần cố nông như Thị Mẹt.
Trái lại Miền Nam rất ư là nôm na, tuy dễ hiểu nhưng
nhiều khi bình dân quá độ như Trần Trụi Bông Giấy,
Nguyễn thị Út Nữa (rán nín đẻ nhưng cuối cùng lại lọt
thêm một trự), Trịnh thị Rót (miễn bàn), ịch thanh Tủng,
Bùi thị Rớt (bị đẻ rớt), ặng Thành ược (đánh cá
ngựa là trúng cá cặp ngay), Huỳnh văn ực Rựa (làm gì
có Huỳnh thị ực Rựa?), Thái Thành Mắm (con cháu bà giáo
Thảo hay gốc gác Châu ốc), Thạch Sanh Mười Lăm (đẻ dữ
tợn).
Phát âm Sàigòn
Phát âm Sàigòn và phát âm miền Nam rồi đây cũng sẽ thay
đổi vì chịu ảnh hưởng của phát âm Hà Nội và Hà Nội
cũng sẽ phải thay đổi phần nào đó theo phát âm Sàigòn
vì nhiều lý dọ Một trong các lý do là dân Hà Nội, dân
miền Trung vào miền Nam khá đông. Mặt khác thông tin, giao
lưu văn hoá hai miền sẽ có ảnh hưởng qua lại .
Phát âm miền Nam đã được tôi luyện, xào nấu, thêm
thắt lại từ phát âm miền Trung và miền Bắc, do di dân
nghèo hay của tội phạm nhẹ bị phát vãng trong công cuộc
Nam tiến, lại thêm mắm thêm muối từ các tiếng Quảng
ông, Phúc Kiến, Triều Châu, Khmer, Chàm, Chà Châu Giang
(Giang là sông, Chà là do chữ Java, Châu ốc là do Châu
Toch, tên con sông ở gần Châu ốc, phía bên Kampuchiạ Tên
núi Sam ở Châu ốc là từ nói trại đi của từ Chàm,
Kompong Chàm ở Campuchia là Vũng Chàm. Java đã biến thành
sông Bà Hoà ở Cửu Chân. Một số người Chà Châu Giang
hay một số dân miền Trung có thể lai giống Á Rập nên
khá cao, nhất là các em sinh tại nước ngòai rất cao mặc
dầu cha mẹ ở mức trung bình).
Như vậy phát âm miền Nam đã được chọn lọc tự nhiên
để từ từ trở thành đại chúng, do đó phải giản dị,
dễ hiểu, dễ phát âm để mọi sắc tộc đều nói
được. Chính vì thế mà âm V, Z đã biến mất nhường
chỗ cho âm D nhẹ, W, J, R, Tr. Tuy nhẹ nhàng uyển chuyển và
dễ uốn lưỡi theo tiếng nước khác nhưng cũng rất khó
thay đổi thêm vì nó đã thay đổi rồi, không còn
đường nào để binh
""Hai mươi năm mới gặp lại mà sao anh trông vẫn còn
tre""ủ
""Vâng. Trẻ mãi không già vì tôi đã già ngay từ khi còn
rất trẻ""
Phát âm Hà Nội rồi ra cũng phải thay đổi cho hiện đại,
hợp thời trang, với khuynh hướng tòan cầu hóa ngôn ngữ
và kinh tế, với Anh ngữ, với trào lưu thông tin, Internet,
và dân nước ngoài, nhất là dân Hà Nội xưa trong lẫn
ngòai nước
"Khi cán ngố vào Sàigòn thì mức độ thông minh IQ cả hai
miền trở nên ngang ngửa"
Phát âm người Việt nước ngoài khác người trong nước
vì nhiều phương diện như không dùng từ made in China, lai
giọng Tây, nói chậm hơn do ít xữ dụng, ít người để
đối thoại, nhiều khi cả ngày chỉ nói chuyện bà xã hay
với đầu gối, không bị thúc đẩy bởi cuộc sống lúc
nào cũng "khẩn trương".
Bạn biết mình là Việt kiều khi:
Thủ sẵn giấy 5, 10 đô trước khi về đến phi cảng. Mày
râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, xài tiền như công tử
Bạc Liêu, hơn cả Mẽo thời xưa .
Dân buôn bán mừng húm như bắt được vàng khi vớ
được mình, tha hồ trấn lột.
Thậm thụt bên vệ đường -""Vùng vằng nữa ở nữa
về""- để chờ cơ hội ngàn năm một thuở theo bén gót
đoàn bộ hành băng qua đường. Người trong nước coi xe
cộ là vật hư ảo, đường ta ta cứ đi, cùng lắm là vào
nhà thương, nhằm nhò gì . Già cúp bình thiếc củng cưới
được vợ trẻ .
Tiếng Việt cho mọi phương ngữ có khoảng 81 âm vi Con số
có thể thay đổi đôi chút nhưng không thể nào là 36 hay
44 được. Quí vị độc giả nghĩ sao ?
oOo
http://www.vn.net/article.php/20060714081515159
No comments:
Post a Comment