Trần Ngân
Kỳ họp
thứ 4 Quốc hội khóa 13 năm nay của Việt Nam được mở đầu bằng một màn
xin lỗi khá thống thiết của Thủ tướng. Trước đó Tổng bí thư cũng đã
đăng đàn xin lỗi sau Hội nghị TW 6. Xin lỗi thì cũng tốt thôi nhưng
vấn đề là sau khi xin lỗi có làm gì để sửa sai hay không và vấn đề
còn quan trọng hơn nữa là liệu đã nhìn ra đúng cái sai để sửa hay
chưa. Tác giả bài viết này cho rằng ban lãnh đạo Việt Nam hiện nay
đã không nhìn ra đúng cái sai để sửa hay nói đúng hơn là không đủ
khả năng hoặc không muốn sửa những cái sai lớn nhất. Điều này sẽ làm
triển vọng trung hạn (khoảng 10 năm tới) của nền kinh tế Việt Nam là
rất kém.
Có thể
nói tâm lý chung của xã hội Việt Nam hiện nay đang tập trung vào
những vấn đề nóng, mang tính ngắn hạn trước mắt mà còn ít quan tâm
tới các vấn đề trung và dài hạn. Điển hình như ngay trong cuộc họp
Quốc hội đang diễn ra, trong khi có tới gần 400 câu hỏi về những vấn
đề tiền tệ, ngân hàng dành cho thống đốc NHNN thì Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch và Đầu tư lại không ra trả lời chất vấn. Trong khi thực ra các
vấn đề về tiền tệ chỉ là vấn đề ngắn hạn của nền kinh tế. Trong
trung và dài hạn, muốn nền kinh tế phát triển tốt thì phải thay đổi
các yếu tố của tổng cung như máy móc, trình độ lao động, trình độ
công nghệ, trình độ quản lý hay nói cách khác là phải tái cấu trúc
nền kinh tế là lĩnh vực do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì.
Việc
tái cấu trúc nền kinh tế được nói tới rất nhiều trong giai đoạn từ
khoảng năm 2009 nhưng rồi sau đó dần đi vào quên lãng. Rất nhiều
chuyên gia kỳ vọng với chương trình tái cấu trúc được nói tới rầm rộ
nhưng cuối cùng đa số đều thất vọng vì hầu như chưa có tiến triển gì
cả. Tuy nhiên, tôi cho rằng , dù chương trình tái cấu trúc này được
thực hiện thì kết quả vẫn rất đáng nghi ngờ vì một trong những nhánh
tái cấu trúc trọng tâm là tái cấu trúc DNNN đã sai ngay từ trong
định hướng.
Trong Đề án “Tái cơ
cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là tập đoàn, tổng công
ty nhà nước giai đoạn 2011-2015”, do Bộ Tài chính xây dựng được Thủ
tướng phê duyệt ngày 17/7/2012 vẫn nêu mục tiêu của tái cấu trúc là
để DNNN “… làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai
trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô…” (http://www.ven.vn/sau-giai-phap-thuc-hien-tai-co-cau-dnnn-den-2015_t77c78n30307tn.aspx)
Đối với
ngành ngân hàng thì trong Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín
dụng giai đoạn 2011 – 2015” của NHNN được Thủ tướng phê duyệt ngày
1/3/2012 có nêu mục tiêu là: “Nâng cao vai trò, vị trí chi phối, dẫn
dắt thị trường của các tổ chức tín dụng Việt Nam, đặc biệt là bảo
đảm các ngân hàng 100% vốn của Nhà nước và ngân hàng có cổ phần chi
phối của Nhà nước (sau đây gọi chung là ngân hàng thương mại nhà
nước) thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các tổ chức
tín dụng, đồng thời có đủ năng lực cạnh tranh trong nước và quốc
tế.” (http://www.vietinbankschool.edu.vn/home/export/sites/default/vn/doccenter/vanban/taichinh/de_an_tai_co_cau_NH.pdf)
Như vậy
có thể thấy mục tiêu của các đề án tái cơ cấu này vẫn là làm sao để
DNNN giữ được vai trò chủ đạo, thậm chí còn là công cụ để nhà nước
ổn định và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Đã có
quá nhiều chứng cứ về lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam và thế giới
chứng minh sự kém hiệu quả của DNNN so với các loại hình doanh
nghiệp khác nên ở đây không cần nói lại nữa.
Theo
tôi, đây có thể được coi là trở lực lớn nhất trong công cuộc phát
triển kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới. Tiếp tục các định
hướng trên cũng có nghĩa là sẽ tiếp tục ưu tiên các nguồn lực khan
hiếm cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả nhất của nền kinh tế, cản
trở việc hiện đại hóa công nghệ vì lãnh đạo các doanh nghiệp này có
xu hướng thích mua máy móc cũ với chi phí cao để kiếm hoa hồng hơn
là các máy móc chất lượng tốt. Tiếp tục ưu tiên và bảo bọc DNNN cũng
chính là cách tốt nhất để làm giảm khả năng cạnh tranh của chúng và
cản trở việc thay đổi cung cách quản trị công ty. Về cả mặt lý
thuyết và thực tiễn, chưa có quốc gia nào phát triển nhanh và bền
vững khi chủ yếu dựa vào cột trụ là các DNNN. Việt Nam tiếp tục cố
gắng đi ngược lại kinh nghiệm nói chung của thế giới thì chắc chắn
sẽ lại phải chuốc lại thất bại mà thôi.
Đi kèm
với triển vọng tăng trưởng thì triển vọng lạm phát cũng rất kém vì
sẽ còn rất nhiều tiền được đổ vào một khu vực hiệu quả kém, lượng
của cải tạo ra ít so với quá nhiều vốn đổ vào thì khả năng xảy ra
lạm phát cao và dai dẳng gần như là chuyện đương nhiên.
Vấn đề
then chốt thứ 2 sẽ kiềm hãm tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam trong
trung hạn theo tôi chính là việc không chấp nhận đa sở hữu về đất
đai hay nói cụ thể hơn là sở hữu tư nhân về đất đai. Đây có lẽ là
điểm gây thất vọng nhất trong Luật Đất đai sửa đổi đang được Quốc
hội bàn luận.
Trước
khi ban hành Hiến pháp 1980, ở Việt Nam vẫn thừa nhận quyền sở hữu
tư nhân về đất đai. Khái niệm “đất đai là sở hữu toàn dân” được đưa
vào Hiến pháp 1980 chủ yếu là vì ý muốn chủ quan của TBT Lê Duẩn
(ông này cũng là người đã “sáng chế” ra những khái niệm như “làm chủ
tập thể” hay “xây dựng mỗi huyện thành 1 pháo đài kinh tế” mà bản
thân các cán bộ lý luận thời đó cũng không biết tuyên truyền, giải
thích làm sao cho cấp dưới hiểu được). (http://sgtt.vn/Goc-nhin/88720/Tinh-than-Hien-phap-Phan-1-Doi-thay-theo-dong-lich-su.html)
Đại đa
số các nước trên thế giới thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai
và đây lại là 1 lĩnh vực nữa mà Việt Nam quyết tâm đi ngược chiều
với thế giới văn minh. Khi đất đai không được giao ổn định cho người
dân thì người dân sẽ không dám đầu tư nhiều vào đất đai vì họ sợ có
thể bị nhà nước thu hồi một cách tùy tiện như trong vụ ông Đoàn Văn
Vươn.
Nhà
kinh tế học H. De Soto, trong quyển sách nổi tiếng Sự bí ẩn của
vốn (The Mystery of Capital) cho rằng một trong những lý do quan
trọng trong việc làm các quốc gia bị nghèo đói là bởi vì “Sự thất
bại của hệ thống luật pháp trong việc công nhận và tôn trọng tài sản
của người nghèo”.
De Soto
viết: Người dân ở những nước chậm phát triển cũng khôn khéo và có
đầu óc kinh doanh như người dân ở những nước giàu có. Vấn đề khác
biệt then chốt là vì phần lớn họ sống trong những ngôi nhà không
phải là chủ sở hữu thực sự. Họ không có quyền pháp lý đối với đất
đai, nhà cửa hoặc công việc kinh doanh. Họ không thể sử dụng chúng
như những đồ ký quỹ hoặc vay mượn khi cần thiết. Họ cũng không thể
sử dụng những dịch vụ thiết yếu như điện, nước. Và nếu họ có tích
luỹ được tài sản, họ sẽ gặp rủi ro khi bị những rào cản từ phía
Chính quyền.[1]
Như
vậy, việc không thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai sẽ làm
lãng phí một nguồn lực rất quan trọng cho công cuộc phát triển kinh
tế, chưa kể đây chính là mầm mống của đại đa số các vụ khiếu kiện và
bất ổn cũng như là nguồn cơn của tham nhũng trong thời gian qua.
Vấn đề
đặt ra tiếp theo ở đây là: đâu là nguồn gốc của những vấn đề trên?
Tại sao các chương trình tái cấu trúc ỳ ạch? Tại sao vẫn giữ tư duy
kinh tế nhà nước làm chủ đạo mặc dù đại đa số ngay cả những người hô
hào to nhất cho điều đó cũng biết quá rõ rằng các hiệu quả của các
DNNN là rất kém? Tại sao không chịu thừa nhận quyền sở hữu tư nhân
về đất đai?
Chắc
chắn đã có nhiều người biết rằng nguyên nhân sâu xa của những vấn đề
trên nằm ở thể chế kinh tế và thể chế chính trị của Việt Nam hiện
nay.
Trong
quyển sách nổi tiếng “Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn
gốc của Quyền lực, Thịnh vượng, và Nghèo đói” (Why Nations Fail: The
Origins of Power, Prosperity, and Poverty) mới xuất bản
đầu năm 2012, hai nhà kinh tế Daron Acemoglu và James Robinson cho
rằng thể chế là yếu tố quyết định tới sự giàu có hay nghèo đói của
một quốc gia.[2]
Các tác giả phân ra hai loại thể chế kinh tế: Thể chế kinh tế bao
gồm (thể chế tốt) (inclusive economic institution) sẽ giúp cho kinh
tế phát triển thịnh vượng bền vững; và các Thể chế kinh tế khai thác
(thể chế xấu) (extractive economic institution) cũng có thể tạo ra
sự tăng trưởng nhưng không bền vững trong dài hạn. Nhưng thường thì
loại thể chế xấu này sẽ làm trì trệ hoặc thậm chí phá hủy nền kinh
tế như ở Zimbabwe.
Các thể chế kinh tế bao gồm (tốt) bảo đảm: các quyền
tài sản an toàn; luật pháp và trật tự; các thị trường và sự ủng hộ
của nhà nước đối với các thị trường (qua các dịch vụ công và các quy
định); dễ tham gia hoạt động kinh tế; tôn trọng các hợp đồng; đa số
nhân dân được tiếp cận đến giáo dục và đào tạo và các cơ hội.
Ngược lại, trong các thể chế kinh tế khai thác (xấu)
thì: thiếu luật pháp và trật tự; các quyền tài sản không an toàn;
các rào cản tham gia và các quy chế cản trở hoạt động của các thị
trường và tạo ra sân chơi không bằng phẳng.
Nhưng bản thân các thể chế kinh tế lại xuất phát từ
các thể chế chính trị. Tương ứng với 2 loại thể chế kinh tế thì cũng
có 2 loại thể chế chính trị: bao gồm và khai thác.
Các thể chế chính trị bao gồm bảo đảm: điều kiện cho
sự tham gia rộng rãi của các công dân – chủ nghĩa đa nguyên – đặt ra
các ràng buộc và kiểm soát đối với các chính trị gia; nền pháp trị;
nhà nước tập trung ở mức đủ để thực thi luật pháp và trật tự (nhưng
không quá tập trung để biến thành chính thể chuyên chế).
Ngược lại, các thể chế chính trị mang tính khai thác:
tập trung quyền lực chính trị vào tay một số ít người; không có các
ràng buộc lên các chính trị gia, không có cơ chế kiểm soát và cân
bằng hay thiếu nền pháp trị.
Như vậy
có thể thấy rằng các thể chế kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện
nay còn rất nhiều các yếu tố của một thể chế mang tính khai thác nên
việc nó chưa tạo ra được một sự tăng trưởng bền vững cho đất nước
cũng không có gì quá ngạc nhiên.
Theo
tôi, một loạt các sự kiện gần đây ở Việt Nam cho thấy thể chế hay
nói đúng hơn là bộ máy lãnh đạo cấp cao ở Việt Nam hiện nay đã mất
đi khả năng “tự sửa sai” vốn là một đặc tính thiết yếu của một hệ
thống nếu muốn nó được vận hành tốt khi không có các sự kiểm soát từ
bên ngoài.
Trong
Đại hội 11, khi Thủ tướng và một số Ủy viên Bộ Chính trị có khả năng
đưa thẳng con cháu còn rất trẻ của mình vào giới lãnh đạo chóp bu
thông qua sự dàn xếp, đổi chác ở hậu trường thì rõ ràng hệ thống
chính trị ở Việt Nam đã ngày càng vận hành bởi vì lợi ích của chính
nó chứ không còn vì nhân dân mà nó nói rằng nó đại diện nữa.
Khi Hội
nghị TW 6 diễn ra trong tháng 10/2012, nhiều người cũng hi vọng là
thủ tướng có thể bị kỷ luật nhưng đa số những người tỉnh táo và hiểu
biết tình hình đều hiểu rằng điều này không thể xảy ra trong bối
cảnh hiện tại. Vấn đề chính là các ủy viên TW mà trong đó rất nhiều
người có được ân huệ từ phe của thủ tướng sẽ bỏ phiếu vì lợi ích của
chính mình và phe nhóm chứ không phải lợi ích của đất nước. Đây là 1
hệ thống đã được xếp đặt chặt chẽ từ Đại hội 11 và chắc chắn nhiều
người đã phải bỏ ra những khoản chi phí không nhỏ cho cái ghế của
mình và chưa kịp thu hồi vốn thì tất nhiên họ không muốn gây ra một
sự xáo trộn lớn có thể ảnh hưởng tới vị trí và gắn với nó là quyền
lợi của mình. Những sai lầm của Thủ tướng gây ra tác động trực tiếp
tới đời sống người dân chứ không tác động tới quyền lực hay lợi ích
của các Ủy viên TW và phe nhóm nên chả có lý do gì để họ phải phế
truất Thủ tướng trừ phi Thủ tướng gây tổn hại trực tiếp tới lợi ích
của họ.
Họ biết
rằng hệ thống các DNNN làm ăn kém hiệu quả thế nào, các tập đoàn làm
ăn lỗ lã thất thoát thế nào nhưng vẫn quyết tâm giữ vững quan điểm
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, là “công cụ điều tiết vĩ mô
nền kinh tế” dù không hề có cơ sở khoa học và thực tiễn nào chứng
minh những tín điều trên là đúng đắn và đã bị rất nhiều chuyên gia
có uy tín phản đối. Trong các kiến nghị của mình thì Ủy ban Kinh tế
của Quốc hội cũng đã đề nghị thẳng là: “Không dùng DNNN là một
công cụ để điều tiết vĩ mô” (http://cafef.vn/doanh-nghiep/khong-su-dung-dnnn-la-mot-cong-cu-dieu-tiet-kinh-te-vi-mo-20120522015510754ca36.chn).
Nhưng trong lần sửa đổi Hiến pháp này người ta vẫn muốn đưa điều
khoản Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vào trong Hiến pháp.
Họ biết
rằng việc không chịu thừa nhận quyền sở hữu đất đai của người dân
chính là nguồn gốc sâu xa của hơn 70% vụ khiếu kiện trong thời gian
qua, là công cụ để tước đoạt đất đai và bần cùng hóa nông dân, là
nguồn gốc tạo ra tham nhũng và bất bình đẳng ngày càng trở nên trầm
trọng nhưng vẫn quyết tâm giữ vững quan điểm cũng chẳng có cơ sơ
khoa học và hết sức mơ hồ là “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” dù cũng
có tới 48% cơ quan T.Ư và 37% cơ quan địa phương đề xuất là nên có
tư nhân hóa đất đai (http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121107/du-an-luat-dat-dai-sua-doi-phai-cham-dut-khieu-kien-trien-mien.aspx)
Tất cả
những điều trên và hàng loạt sự việc nữa đã chứng tỏ hệ thống thể
chế ở Việt Nam hiện nay đã mất đi khả năng “tự sửa sai” là điều đã
giúp nó thoát khỏi khủng hoảng giai đoạn 1986-89. Trong một hệ thống
độc đảng, không có tiếng nói đối lập như ở Việt Nam thì khả năng “tự
sửa sai” hay “tự đổi mới” của hệ thống là cực kỳ quan trọng. Đảng
Cộng sản đã chứng tỏ họ có khả năng này thông qua qua quá trình Đổi
mới (tạm gọi là Đổi mới 1) giai đoạn 1986-89. Tuy nhiên, sau lần Đổi
mới 1 mạnh bạo đó, đã vài lần người ta mong có Đổi mới 2 nhưng rồi
đều không đi tới đâu. Giai đoạn năm 1997-98, trong tâm bão của khủng
hoảng tài chính-tiền tệ Đông Á, Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề, tăng
trưởng GDP năm 1999 bị sụt còn 4,77%, nhiều người đã kêu gọi có Đổi
mới 2 vì đà tiến từ Đổi mới 1 đã hết. Tuy nhiên, với một lãnh đạo
thủ cựu là TBT Lê Khả Phiêu thì điều này đã không diễn ra mà thay
vào đó, đi đâu cũng thấy hô hào câu khẩu hiệu “phát huy nội lực” do
ông đưa ra. Tới giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2007-08,
lại một lần nữa nhiều người kêu gọi Tái cấu trúc nền kinh tế hay Đổi
mới 2 nhưng rồi như đã nói ở trên, điều này cũng mãi chưa xảy ra.
Lật lại
lần Đổi mới 1 thì có lẽ lúc đó do đất nước đã lâm vào khủng hoảng
toàn diện, không còn sự trợ giúp ở bên ngoài, ở trong thế bị dồn vào
chân tường, cộng thêm khí thế đổi mới ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng
Cộng sản mới có quyết tâm làm một cuộc đổi mới toàn diện về tư duy.
Tất nhiên, lúc đó không thể không kể đến vai trò cá nhân cực kỳ quan
trọng của người đứng mũi chịu sào là TBT Trường Chinh với câu khẩu
hiệu nổi tiếng: “Đổi mới hay là chết” dù trước đó ông là người rất
bảo thủ[3]
(Còn hiện tại tôi nghĩ khẩu hiệu của Đảng có lẽ là “Thà chết (dân)
chứ (nhất định) không đổi mới”). Tất nhiên lúc đó có 1 may mắn cho
đất nước là TBT Lê Duẩn qua đời chứ nếu không quá trình đổi mới ở
Việt Nam chắc chắn sẽ khó khăn hơn rất nhiều. (Acemoglu và Robinson
cũng cho rằng thể chế có thể thay đổi vì những lý do rất ngẫu
nhiên). Ở thời điểm sau Đổi mới 1, khi hệ thống thể chế mới đã được
hình thành và dần có tính cố kết cao, các thành phần trong hệ thống
quyền lực sẽ có xu hướng muốn duy trì hiện trạng (Status Quo) vì họ
có quá nhiều cái để mất nếu xảy ra thay đổi lớn. Chẳng hạn, nếu tư
nhân hóa hầu hết các DNNN thì cả một hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương tới địa phương sẽ không còn có thể bòn rút
các nguồn lợi từ các doanh nghiệp này và tất nhiên họ cùng với các
lãnh đạo hiện thời của các doanh nghiệp đó sẽ tìm mọi cách để điều
này không xảy ra hoặc xảy ra càng chậm càng tốt. Chính vì thế, có lẽ
mong chờ hệ thống tự đổi mới (lớn) trong tình hình hiện tại chỉ là
ảo tưởng.
Các
lãnh đạo thế hệ trước đây của Việt Nam như Trường Chinh, Lê Duẩn…
rất lý tưởng, trong sạch và hầu như không tham nhũng. Họ một lòng
muốn đất nước đi lên nhưng không đủ kiến thức để làm được điều đó.
Nhưng tình hình hiện nay đã khác, nhiều lãnh đạo hiện nay hoặc có
kiến thức hoặc hoàn toàn có thể dựa vào các chuyên gia để biết cách
làm đất nước phát triển nhưng họ không muốn làm vì họ muốn bảo vệ
quyền lợi của họ và phe nhóm hơn là vì lợi ích của đất nước.
Thực ra
ở Việt Nam khi thủ tướng Dũng lên cầm quyền vào giữa năm 2006, đã có
rất nhiều người hi vọng vì ông này tỏ ra là một người có tư tưởng
cách tân và có năng lực khi còn làm Phó thủ tướng. Sau hơn một nhiệm
kỳ của thủ tướng Dũng, có thể nói rằng sau thời của TBT Lê Duẩn,
chưa khi nào vận mệnh của đất nước lại bị ảnh hưởng nhiều bởi một cá
nhân như vậy. Với quyền lực vượt trội của mình trong tập thể lãnh
đạo Việt Nam, nếu thủ tướng Dũng có những quyết định sáng suốt thì
chắc chắn Việt Nam đã khác xa bây giờ và lịch sử sẽ ghi công ông
Dũng như người có công đầu trong việc đưa Việt Nam lên một tầm cao
mới. Nhưng rất tiếc rõ ràng thủ tướng Dũng đã phá hỏng gần hết đà
tiến và triển vọng tăng trưởng của Việt Nam[4].
Ngoài
lý do về lợi ích nhóm thì một lý do quan trọng khiến hệ thống hiện
nay mất khả năng tự sửa đổi chính là tư duy bảo thủ của rất nhiều
cán bộ trong hệ thống. Ví dụ điển hình có thể thấy công khai là các
đại biểu QH ngành công an, quân đội bảo vệ rất hăng hái hệ thống các
DNNN. Chẳng hạn trong vụ Vinashin, các đại biểu QH như
thiếu
tướng Trần Bá Thiều - Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng
CAND, Thiếu tướng Bế Xuân Trường - tư lệnh Quân khu I, Trung tướng
Võ Trọng Việt - bí thư Đảng ủy, chính ủy Bộ đội biên phòng đều có xu
hướng biện hộ cho Vinashin và bảo vệ cách xử lý của Chính phủ trong
vụ này (http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/409012/Dung-vi-Vinashin-ma-lam-rac-roi-tinh-hinh.html)
hoặc khi bàn về việc có nên đưa qui định “Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo” vào Hiến pháp sửa đổi hay không thì đại biểu Lê Đông
Phong, Thiếu tướng, PGĐ Công an TP.HCM cũng ủng hộ đưa qui định này
vào (http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2012/11/303478/).
Thực ra
thì rất khó trách những người này khi từ lúc học đại học, trung, cao
cấp chính trị lúc nào họ cũng được nhồi nhét vào đầu những tín điều
về tầm quan trọng của DNNN. Ngay bản thân các lãnh đạo cao cấp còn
đi tới mức “sùng bái” hay có thể nói là
“mê tín” vào DNNN khi cho rằng nếu không có DNNN thì nhà nước không
thể điều hành được nền kinh tế. Chẳng hạn Thủ tướng Dũng có nói:
“Trong 3 khối doanh nghiệp, phúc lợi cao nhất là DNNN. Các DNNN gần
như không để công nhân thất nghiệp. Trên tổng thể, trong những năm
qua, trong giai đoạn thực sự khó khăn, nếu không có lực lượng kinh
tế nhà nước, chính phủ không biết điều hành làm sao"
http://vef.vn/2011-02-16-keu-kho-nhung-cac-tap-doan-van-song-khoe-
Còn
ngài Nguyên Phó thủ tướng, giờ là chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
thì ban cho DNNN danh hiệu “Anh cả đỏ của nền kinh tế”
http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/2008/04/779904/
Tóm
lại, kết luận chính của bài viết này là tương lai trung hạn của nền
kinh tế Việt Nam là rất kém vì những lý do chính sau:
-
Hầu hết các cải cách quan trọng cần
thiết để giải phóng các nguồn lực tăng trưởng trong trung và dài hạn
liên tục bị trì hoãn mà không được thực thi. Nhưng bản thân nhiều
cải cách này cũng sai ngay từ định hướng nên kết quả rất khó thành
công hay nói đúng hơn là chắc chắn cũng sẽ thất bại. Điều này sẽ làm
thui chột các nguồn lực đang rất khan hiếm dành cho tăng trưởng kinh
tế. Việc “cải cách” các tập đoàn (thực chất là “cải lùi” về cơ chế
cũ) như đưa lại về cho các Bộ quản lý như trước đây trong khi Thủ
tướng chỉ nắm các tập đoàn lớn (ngon ăn nhất) có thể làm giảm bớt
qui mô của thất thoát nhưng chắc chắn không giải quyết được gì về
vấn đề hiệu quả hoạt động của các tập đoàn này cả. Việc cố lai tạp
để tạo ra một thứ “quái thai” không giống ai rồi lại cố gắng để huấn
luyện nó thành thiên tài rõ ràng là chuyện không tưởng. Các cheabol
ở Hàn Quốc dù nhận được nhiều hỗ trợ của nhà nước nhưng về bản chất
vẫn là doanh nghiệp tư nhân có sức cạnh tranh cao. Trung Quốc cũng
có những tập đoàn nhà nước lớn hùng mạnh nhưng phải hiểu rằng người
Trung Quốc có truyền thống kinh doanh từ hàng ngàn năm nay với rất
nhiều doanh nhân nổi tiếng trong lịch sử và những tập đoàn nhà nước
ở dù nhận được nhiều sự hỗ trợ của nhà nước nhưng cũng đã có quá
trình cạnh tranh lâu dài tương đối sòng phẳng với các công ty đa
quốc gia.
-
Thể chế chính trị hay nói cụ thể hơn là
bộ máy lãnh đạo cấp cao ở Việt Nam hiện nay đã mất khả năng “tự sửa
sai” và lợi ích của số đông cán bộ lãnh đạo không còn gắn với với
lợi ích của đại đa số nhân dân và đất nước nữa. Ví dụ như việc 63%
cơ quan cấp địa phương không đồng ý với việc tư nhân hóa đất đai
cũng cho thấy cán bộ cấp địa phương được hưởng lợi nhiều thế nào từ
qui định về “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” hiện nay. Lợi ích nhóm
cộng với tư duy bảo thủ càng ngày càng làm cho hệ thống mất khả năng
tự đổi mới để đưa ra những quyết sách đúng đắn có tầm nhìn dài hạn.
Việc hi vọng vào những phong trào kiểu như “Học tập tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh” hay “Phê và tự phê” để làm cán bộ trong sạch hơn rõ
ràng chỉ là ảo tưởng. Không thừa nhận Tam quyền phân lập, tinh hoa
của trí tuệ loài người thì không cách nào có thể xây dựng được một
thể chế tốt để chống tham nhũng được. Có Tam quyền phân lập chưa
chắc đã chống được tham nhũng nhưng nếu không có, cũng có nghĩa là
tư pháp không được độc lập, cộng thêm báo chí không được tự do thì
sẽ dẫn tới quyền lực không bị kiểm soát thì chắc chắn không thể
chống được tham nhũng. Những biện pháp khác như lập lại Ban Nội
chính TW và Ban Kinh tế TW rõ ràng là một bước thụt lùi về cải cách
thể chế, dùng cái sai này để sửa cái sai khác, chắc chắn sẽ không có
tác dụng gì trong việc làm nền kinh tế tốt lên và giảm bớt tham
nhũng.
-
Nhiều chính sách kinh tế trong thời
gian kể từ khi thủ tướng Dũng lên nắm quyền và đặc biệt trong giai
đoạn từ năm 2008 trở lại đây có chất lượng rất kém. Trong kinh tế có
1 nguyên lý rất quan trọng là: “Con người làm việc vì các khuyến
khích” (People Respond to Incentives). Vấn đề là nhà nước phải tạo
ra các khuyến khích đúng đắn để mọi người làm việc tạo ra của cải và
nền kinh tế có thể vận hành một cách trơn tru. Nếu nhà nước đưa ra
các khuyến khích sai, nền kinh tế sẽ bị méo mó và không thể phát
triển tốt. Thay vì tôn trọng các qui luật thị trường và tạo ra các
khuyến khích đúng cho người dân và nền kinh tế tự vận hành thì thủ
tướng Dũng và bộ máy của mình đã đưa rất nhiều chính sách mang tính
hành chính và làm thị trường ngày càng trở nên méo mó hơn. Các biện
pháp hành chính thì luôn được hô hào là cần làm theo kiểu “quyết
liệt” (“quyết” làm đất nước “liệt” đi) bất chấp các hệ quả đã được
nhiều chuyên gia chỉ ra từ trước. Luôn có những “hệ quả không lường
được” (Unintended Consequences) khi con người cố gắng can thiệp vào
các hiện tượng kinh tế-xã hội. Ví dụ điển hình chính là chính sách
quản lý vàng. Khi VND bị mất giá nhiều do lạm phát cao, người dân
chuyển sang tích trữ vàng và USD. Thay vì quyết tâm chống lạm phát
để nâng cao chất lượng VND, tạo niềm tin cho người dân thì nhà nước
lại sử dụng các biện pháp hành chính để ngăn cấm sử dụng USD và vàng
để ép người dân phải dùng loại hàng hóa có chất lượng thấp là VND.
Việc sử dụng các biện pháp hành chính như thế này rõ ràng là sai từ
đầu và do phản ứng của thị trường thì rồi sẽ càng ngày phải thực
hiện các biện pháp vá víu sai lầm bằng các ý tưởng hết sức kỳ quặc,
không giống ai như: xây dựng thương hiệu vàng quốc gia SJC, độc
quyền hóa thị trường vàng làm thiệt hại ghê gớm quyền lợi chính đáng
của người dân. Như TS.Vũ Thành Tự Anh có nói là “Cần đảo ngược những
gì đã làm sai”[5]
nhưng để đảo ngược những chính sách sai lầm như vậy hết sức khó khăn
và chi phí cho xã hội là rất cao. Khi một chính sách và một hệ thống
chính sách đã được ban hành thì nó bắt đầu có cuộc sống riêng của nó
và có khả năng tự tái tạo ra một hệ thống hỗ trợ cho nó và điều này
sẽ làm cho việc xóa bỏ những cái sai là rất khó khăn và trong nhiều
trường hợp là bất khả thi.
Nhiều
người đánh giá rằng cho tới hết năm 2013, kinh tế Việt Nam sẽ còn
khó khăn, hàm ý rằng những năm sau sẽ khá hơn. Theo quan điểm của
tôi, đánh giá như vậy vẫn còn là quá lạc quan. Có thể tình hình sắp
tới của Việt Nam sẽ không xảy ra khủng hoảng lớn nhưng có xác suất
rất cao sẽ rơi vào sự trì trệ do lâm vào một vòng phản hồi xấu
(Vicious Circle) khi đất nước đã mất đà tăng trưởng, Thủ tướng (đồng
chí X) và ê kíp của mình như Phó thủ tướng Nhân, bộ trưởng Thăng,
thống đốc Bình… đã mất gần hết uy tín lãnh đạo trong mắt người dân
và cán bộ các cấp, doanh nghiệp tư nhân phá sản hàng loạt, hàng tồn
kho chất đống, nợ xấu ngân hàng không biết bao giờ mới giải quyết
xong, các tập đoàn con cưng nợ đầm đìa, thị trường bất động sản đóng
băng, các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin, bối cảnh kinh tế thế
giới nhiều bất trắc, thể chế thì mất khả năng tự đổi mới và đưa ra
những quyết định sáng suốt có tầm nhìn dài hạn, người dân thì mất
niềm tin và đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng...
Trong
bối cảnh hiện nay thì nguy cơ lớn nhất từ bên ngoài mà Việt Nam gặp
phải chính là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Điều quyết định để Việt
Nam có thể đứng vững trước Trung Quốc hay không chính là sức mạnh
của nền kinh tế. Kinh tế không mạnh thì không thể có nhiều tiền dành
cho quốc phòng. Sau này, khi Trung Quốc có ý định xâm lấn Việt Nam
thì không vì Việt Nam XHCN bằng hoặc XHCN hơn Trung Quốc mà Trung
Quốc nương tay. Đáng lẽ vì quyền lợi dân tộc, lãnh đạo phải thúc đẩy
cải cách kinh tế và chính trị ở Việt Nam mạnh hơn, nhanh hơn Trung
Quốc để nâng cao tiềm lực của đất nước nhưng họ đã không chịu làm
vậy mà luôn sợ sệt, lẽo đẽo đi sau Trung Quốc trong tư tưởng cũng
như các bước cải cách. Tuy nhiên, quan điểm cá nhân của người viết
là khả năng xảy ra chiến tranh với Trung Quốc là thấp. Một lý do đơn
giản là bởi vì các lãnh đạo hiện nay là những người không muốn chiến
tranh nhất nên họ sẽ nhượng bộ. Họ tất nhiên không muốn hi sinh nhà
cửa, đất đai, tài sản của họ để bảo vệ lợi ích của đất nước. Nếu
thực sự họ yêu nước thì họ đâu tham nhũng nhiều như vậy. Ngay cả nếu
xảy ra chiến tranh thì tôi cũng rất nghi ngờ việc con em nông dân
(là chỗ dựa chính trong những cuộc chiến tranh vừa qua) như nông dân
ở Văn Giang chả hạn lại đi nhiệt tình đem xương máu ra bảo vệ “lãnh
địa”, biệt thự, xe hơi, tài sản… của các quan đã cướp đất của chính
mình. Chính vì thế khả năng chiến tranh là thấp nhưng khả năng tụt
hậu và lệ thuộc từ kinh tế vào tới chính trị như lo ngại của cố thủ
tướng Võ Văn Kiệt trước đây là hết sức lớn.
[1]
Có thể đọc bản dịch của quyển sách này tại:
http://www.slideshare.net/guest83eef9/su-bi-an-cua-tu-ban
[2]
Quyển này đã được TS.Nguyễn Quang A dịch ra tiếng Việt. Bài
viết này sử dụng bản dịch của TS.Nguyễn Quang A tại địa chỉ
http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4629-vi-sao-cac-quoc-gia-that-bai-nguon-goc-cua-quyen-lucthinh-vuong-va-ngheo-kho.html
[3]
Để hiểu thêm vai trò quyết định của TBT Trường Chinh trong
đổi mới ở Việt Nam thì có thể xem quyển: “Tư duy kinh tế
Việt Nam 1975 – 1989” của tác giả Đặng Phong
[4]
Thủ tướng là 1 nhà chính trị giỏi trong việc tạo cơ sở quyền
lực cho mình nhưng khi làm như vậy, ông ta đã hi sinh quyền
lợi của đất nước và nhân dân. Đơn cử để gây ảnh hưởng tới
lực lượng công an, ông đã phong tướng cho rất nhiều người,
dưới thời của ông, rất nhiều tướng lĩnh công an đã sang nắm
các vị trí quan trọng như bí thư tỉnh ủy, Trưởng ban Tôn
giáo, Viện trưởng Viện Kiếm sát nhân dân tối cao… Không phải
ngẫu nhiên mà trong thời gian gần đây ngành CA kiên quyết
thực hiện những chính sách rất phi lý và bị dư luận phản đối
rất dữ dội như: bắt in tên cha mẹ vào chứng minh thư, bắt
người đi xe chứng minh mình đang đi xe “chính chủ” cũng như
xảy ra hàng loạt các vụ CA đánh chết dân… Điều này cho thấy
ngành CA đang ngày càng có quyền lực lớn hơn trong xã hội
Việt Nam. Để giữ được cơ sở quyền lực, Thủ tướng đã phải làm
lơ cho các quan chức địa phương hành xử rất tùy tiện. Chẳng
hạn trong vụ Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, Thủ tướng hoàn toàn
có thể chỉ đạo Bộ Công an điều tra thay thế cho công an Hải
Phòng mà ai cũng rõ là không khách quan. Nhưng rõ ràng Thủ
tướng chả dại gì làm thế vì sẽ mất sự ủng hộ của Bí thư
thành ủy là Nguyễn Văn Thành trong khi ông Vươn không mang
lại lợi ích chính trị gì cho thủ tướng. Việc ông Bá Thanh ở
Đà Nẵng thoải mái ra qui định trái với Luật Cư trú nhưng
nhất định không sửa và tuyên bố thẳng trước Quốc hội là Quốc
hội có sửa luật thì sửa chứ Đà Nẵng không sửa qui định càng
cho thấy các quan chức ở địa phương ngày càng không sợ gì
chính quyền trung ương. Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 20-11-12
http://www.viet-studies.info/kinhte/TrienVongTrungHanKinhTeVN.htm
No comments:
Post a Comment