SGTT.VN - “Đằng sau sự trục trặc của tăng trưởng kinh
tế Việt Nam là nguyên nhân về thể chế”, đây là đánh giá chung trong báo
cáo “Khơi thông những nút thắt về thể chế để phục hồi tăng trưởng” của
nhóm chuyên gia kinh tế thuộc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright,
gồm các tác giả Vũ Thành Tự Anh, Phạm Duy Nghĩa, Huỳnh Thế Du, Đỗ Thiên
Anh Tuấn, Ben Wilkinson, Dwight Perkins và David Dapice. Báo cáo này
được ông Nguyễn Xuân Thành, trưởng nhóm trên gửi tới uỷ ban Kinh tế Quốc
hội.
Xuyên suốt bản báo cáo là luận điểm: thể chế yếu kém
chính là nguyên nhân sâu xa đã dẫn tới những bất ổn của nền kinh tế và
nguy cơ suy thoái kinh tế hiện nay. Các nguy cơ về kinh tế, chính trị và
xã hội ngày nay đều có thể lý giải được bởi những cuộc cải cách thể chế
bị trì hoãn hoặc chưa được tiến hành triệt để trong quá khứ.
Với phần tóm tắt trong thời gian có hạn, nhận định nổi
bật của nhóm tác giả đã nhận được sự đồng tình cao là trong bốn động cơ
tăng trưởng thì ba động cơ “nội” gồm khu vực kinh tế nhà nước, khu vực
doanh nghiệp tư nhân trong nước và nông nghiệp đang trục trặc.
Chỉ có một động cơ “ngoại” – khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang chạy tốt. Và điều quan trọng được ông
Thành nhấn mạnh: đằng sau sự trục trặc của ba động cơ “nội” là nguyên
nhân về thể chế.
Theo lý giải của nhóm nghiên cứu, sở dĩ động cơ còn lại
hoạt động tốt là do các doanh nghiệp FDI dựa chủ yếu vào thể chế ở bên
ngoài để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống luật pháp chi
phối các quan hệ hợp đồng, bộ máy quản trị doanh nghiệp, liên kết sản
xuất và tín dụng cũng đều từ bên ngoài và của nước ngoài.
Tuy nhiên, “điểm rất hay” được ông Thành nhấn mạnh là
trong bối cảnh suy kiệt của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước, vẫn
có những doanh nghiệp thành công nhờ “lách” được yếu kém của thể chế
trong nước và có thể sử dụng nguồn lực ở nước ngoài.
Nhưng, hộ gia đình ở khu vực nông nghiệp thì không có
cách gì lách được khó khăn về thể chế nếu quyền sở hữu về đất đai không
rõ ràng. Nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng sự đầu tư của hộ gia đình có sự suy
giảm rất mạnh bởi liên kết rất chặt với quyền sở hữu không rõ ràng, khi
họ không bỏ tiền đầu tư vào đất, mà chỉ có động cơ khai thác tối đa
trong thời hạn ngắn ngủi còn lại mà họ có được.
Còn khu vực FDI thì ngay cả quyền sở hữu về đất đai họ
cũng không bị ảnh hưởng vì họ chỉ thuê đất tại Việt Nam, ông Thành phân
tích.
Đồng tình với nhận định của nhóm nghiên cứu, vị chuyên
gia trong lĩnh vực thống kê của Việt Nam là ông Bùi Trinh dẫn số liệu
tính toán từ niên giám Thống kê cho thấy tỷ trọng giá trị gia tăng của
khu vực FDI trong GDP năm 2000 khoảng 13%, đến năm 2011 tỷ lệ này tăng
khoảng 7 điểm phần trăm (chiếm khoảng 20% GDP). Nhưng lượng tiền chi trả
sở hữu thuần ra nước ngoài (chi trả sở hữu trừ thu từ sở hữu) của năm
2011 theo giá hiện hành tăng gần 19 lần so với năm 2000, và nếu loại trừ
yếu tố giá thì tỷ lệ này cũng xấp xỉ tám lần.
Theo ông Trinh, điều này góp phần làm mức độ để dành
(saving) của trong nước ngày càng giảm và nếu loại trừ kiều hối thì tỷ
lệ này chỉ chiếm khoảng trên dưới 20% GDP. Và, để dành của một quốc gia
là nguồn cơ bản để tái đầu tư trong khi đầu tư hàng năm chiếm trong GDP
vẫn rất cao, trung bình từ năm 2000 – 2011 lượng đầu tư vẫn chiếm trong
GDP khoảng 40% (đặc biệt năm 2007 tỷ trọng này lên tới 46% GDP và từ năm
2004 – 2010 tỷ trọng vốn đầu tư so với GDP đều trên 41%).
Luồng tiền chi trả sở hữu thuần đi ra nước ngoài sẽ
càng trầm trọng nếu ba động cơ nội địa không được phục hồi và khu vực
FDI ngày càng lấn át động cơ nội. Điều gì sẽ xảy ra khi khu vực này
chiếm 30% trong GDP? Vì cái thực sự mà đất nước và nhân dân được hưởng
và tích luỹ không phải là chỉ tiêu “phù phiếm” GDP mà là tổng thu nhập
quốc gia (GNI) và khoản để dành của mọi khu vực sở hữu trong nước, ông
Trinh bày tỏ.
Như vậy, khi đã xác định được sự đình trệ của khu vực
sản xuất trong nước là do thể chế thì các nhà hoạch định chính sách có
thể cải thiện thể chế để phục hồi ba động cơ nội. Việc cải thiện thể chế
không chỉ là giãn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp mà chính là thái độ
công bằng, minh bạch và sòng phẳng đối với khu vực tư nhân và nông
nghiệp. Điều này không tốn kém nhưng cũng rất khó khăn vì phải tái cơ
cấu cách nghĩ! Việc đạt được thành tích tăng trưởng này nọ thực sự không
quan trọng bằng việc phục hồi ba động cơ nội, ông Trinh nhấn mạnh.
Các nhà hoạch định chính sách có
thể cải thiện thể chế để phục hồi ba động cơ nội của nền kinh tế. Việc
này không chỉ là giãn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp mà chính là thái
độ công bằng, minh bạch và sòng phẳng đối với khu vực tư nhân và nông
nghiệp.
|
Khái quát những nút thắt thể chế, nhóm nghiên cứu nhìn
nhận xác lập quyền sở hữu rõ ràng vẫn là một thách thức rất lớn đối với
Việt Nam. Chế độ sở hữu hiện thời của Việt Nam mang tính phân tán, cát
cứ, không rõ chủ đối với đất đai, tài nguyên công cộng, đối với phần vốn
của nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, đối với đầu tư công.
Trong bối cảnh quyền sở hữu phân tán như vậy, nhóm
nghiên cứu cho rằng, những nhóm xã hội có thế lực và các doanh nghiệp có
quan hệ thân thiết với giới chức trong chính quyền nắm quyền định đoạt
các nguồn lực kinh tế trong quốc gia sẽ được hưởng lợi. Các thể chế kinh
tế trên thực tế sẽ được xác lập để ráo riết bảo vệ lợi ích của họ.
Từ nay đến năm 2016, bản báo cáo cho rằng ở Việt Nam
dày đặc các cơ hội cải cách thể chế với việc sửa đổi Hiến pháp và nhiều
đạo luật liên quan đến thể chế kinh tế, quản lý xã hội.
Sở hữu đất đai, vấn đề dường như đã được khẳng định tại
dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng được nhóm nghiên cứu đề cập với
quan điểm có thể giữ nguyên sở hữu toàn dân về đất đai, nhưng coi đó là
khái niệm chính trị chứ không phải là khái niệm kinh tế và xác định sự
sở hữu thực tế là quyền sở hữu chắc chắn của người nắm giữ tài sản.
Với doanh nghiệp nhà nước, để tránh phân tán và cát cứ
trong thực hiện quyền sở hữu, bản báo cáo cho rằng cần thảo luận để
thành lập các cơ quan tín thác nhận uỷ nhiệm của chính quyền, để thực
thi một cách tập trung các quyền sở hữu của nhà nước tại doanh nghiệp.
Nam Thanh
No comments:
Post a Comment