TẠI SAO TA CẦN ĐỌC THƠ VÀ LÀM THƠ ?
Lá Phong chuyển màu vào thu
THƠ
là một loại hình nghệ thuật của ngôn từ, âm thanh của thơ có vần có
điệu nhịp nhàng. Lời lẽ của thơ ngắn gọn, hàm chứa, xúc tích. Một bài
thơ hay có thể làm người đọc rung cảm bởi tiết tấu, bởi nội dung, bởi
hình thức thể hiện.
Giá
trị nghệ thuật của Thơ làm người đọc vui thích vì cái hay, cái đẹp của
ngôn từ. Đọc thơ hay, người đọc có xúc cảm nghệ thuật, cảm nhận được Cái
Đẹp Tinh Thần, tạo thói quen nhận thức những giá trị tinh thần trong
cuộc sống, dần loại bỏ khuynh hướng thực dụng, tôn vinh những giá trị
vật chất đơn thuần, khiến con người sa đoạ trong vật chất. Có thể làm
thơ hay, người sáng tác thơ dần làm phong phú tâm hồn mình bởi những
quan sát, thấu hiểu để có thể phô diễn một cách biểu cảm, sâu sắc và
tinh tế những tình huống, cảm xúc trước cuộc đời, từ đó dần nâng tâm hồn
mình thăng hoa lên, trên nấc thang tiến hoá của sự sống.
Về
hình thức, Thơ có nhiều thể loại, chúng ta có thể kể đến những loại thơ
đã được biết đến như : Đường Luật (Thất Ngôn Bát Cú), Lục Bát, Song
Thất Lục Bát, Thất Ngôn, Ngũ Ngôn, Tứ Tuyệt v.v..... Sau này chúng ta có
thêm Thơ Tự Do.
PHƯƠNG PHÁP LÀM CÁC LOẠI THƠ
Trước tiên chúng ta đề cập đến một loại hình khá phổ biến
VĂN VẦN
Cần
phân biệt Thơ với Văn Vần, vì văn vần chỉ đơn giản là những câu văn
ngăn ngắn, được liên kết với nhau có vần, có điệu nhằm thể hiện một nội
dung nào đó, mà không mang tính nghệ thuật như THƠ.
Ví dụ : Các bài văn vần dành cho trẻ em, ngắn gọn, vui vẻ, dễ nhớ
Hôm nay trời nắng chang chang
Mèo con đi học chẳng mang thứ gì
Chỉ mang một cái bút chì
Và mang một mẩu bánh mì con con
Hoặc các bài Ca Dao như :
Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi qua chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi cho tôi mượn cái gàu sồng
Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên
Chúng ta thường gặp các loại bài văn vần như thế và không nên nhầm lẫn với Thơ
ĐƯỜNG LUẬT (THẤT NGÔN BÁT CÚ)
Đường Luật là một loại thơ cổ. Các thi sĩ Việt Nam ngày xưa thường hay sáng tác theo thể loại này.
Thơ Đường Luật (Có tám câu, mỗi
câu có bảy chữ ) tuân theo các quy định về luật Bằng Trắc , luật Đối
Ngẫu và Vần, Nói chung là Niêm Luật.
· Luật Bằng Trắc
Bằng là những từ có dấu huyền và không dấu. Trắc là những từ có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng. Ký hiệu Trắc là T, bằng là B.
Từ thứ hai của câu thứ nhất nếu là
T, từ thứ bảy của câu thứ nhất là B, thì bài thơ là luật Trắc vần Bằng .
Ngược lại, từ thứ hai của câu thứ nhất là B, từ thứ bảy của câu thứ
nhất là T, thì bài thơ là luật Bằng vần Trắc
Từ câu thứ hai đến câu thứ tám, tuân theo quy luật :
Nhất, tam , ngũ bất luận
Nhị, tứ, lục phân minh
Nghĩa là từ ở vị trí một, ba, năm
không nhất thiết phải theo luật bằng trắc. Nhưng từ ở vị trí hai, bốn,
sáu buộc phải theo luật cân đối bằng trắc ( Nếu từ ở giữa (số bốn) là
Trắc thì hai từ ở vị trí số hai và sáu phải là Bằng (và ngược lại).
·
Luật Đối Ngẫu
Trong tám câu của bài thơ thì câu thứ ba và câu thứ tư, câu thứ năm và câu thứ sáu đối nhau cả về hình thức lẫn nội dung.
· Vần
Vần gieo ở cuối các câu một, hai,
bốn, sáu, tám thì buộc phải cùng âm với nhau, hoặc na ná giống nhau.
Cuối các câu ba, năm, bảy thì có thanh ngược lại.
Thơ Đường có thể làm theo các loại :
Luật Trắc vần Bằng
Đơn cử một bài thơ luật Trắc vần Bằng của Bà Huyên Thanh Quan
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
T T B B T T B
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
B T B B
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
B T B T
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
T B T B
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
T B T T
Thương nhà mỏi miệng cái da da
B T B B
Ngừng đây ngắm cảnh trời non nước
B T B T
Một mảnh tình riêng, ta với ta
T B T B
Đối nhau về hình thức
Câu thứ ba và câu thứ tư
B B T T B B T
T T B B T T B
Câu thứ năm và câu thứ sáu
T T B B B T T
B B T T T B B
Đối nhau về nội dung
Câu thứ ba và câu thứ tư
Lom khom đối với Lác đác, dưới núi đối với bên sông
Tiều vài chú đối với Chợ mấy nhà
Câu thứ năm và câu thứ sáu
Nhớ nước đối với Thương nhà, đau lòng đối với mỏi miệng
Con Quốc Quốc đối với Cái Gia Gia
ĐÈO NGANG
Luật Bằng vần Bằng
Ví dụ : Một bài thơ nổi tiếng của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
B B T T T B B
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
T B T B
Sóng biếc đưa làn hơi gợn tÍ
T B T T
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
B T B B
Tầng mây lơ lửng trời trong vắt
B T B T
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
T B T B
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
T B T T
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
B T B B
Đối nhau về hình thức
Câu thứ ba và câu thứ tư
T T B B B T T
T B T T T B B
Câu thứ năm và câu thứ sáu
B B B T B B T
T T B B T T B
Đối nhau về nội dung
Câu thứ ba và câu thứ tư
Sóng biếc đối với Lá vàng; đưa làn đối với trước gió
Hơi gợn tí đối với khẽ đưa vèo
Câu thứ năm và câu thứ sáu
Từng mây đối với Ngõ trúc; lơ lửng đối với quanh co
Trời trong vắt đối với Khách vắng teo
NGUYỄN KHUYẾN CÂU CÁ
Trong bố cục thơ Đường, hai câu đầu : Giới thiệu đề tài, bốn câu kế tiếp : triển khai nội dung, hai câu cuối : kết luận.
Thơ Đường Luật là
một thể loại thơ khó làm và khó hay, bởi quy luật chặt chẽ về âm vận,
ứng đối và bố cục một bài phải gói gọn trong tám câu. Thi sĩ nào dám
chọn thể thơ này để làm là chấp nhận thử thách tài năng của mình, nếu
thành công (sáng tác được một bài thơ hay) thì điều đó chứng tỏ được sự
tài giỏi và tinh tế trong văn chương của họ.
THƠ LỤC BÁT
Thơ Lục Bát là thể thơ quy định
hai câu liên tiếp một câu sáu chữ, một câu tám chữ và số câu thì không
giới hạn. Thơ Lục Bát nổi tiếng bởi tác phẩm nổi tiếng thế giới “Đoạn Trường Tân Thanh” của Đại Thi Hào NGUYỄN DU.
Thơ Lục Bát là một thể thơ rất dễ làm bởi luật thơ rất đơn giản và tự
do. Do không quy định bắt buộc về số câu trong bài thơ, nên bố cục được
“mở” cho người làm thơ. Ngoài ra, các âm bắt vần cho hai câu không bắt
buộc phải khớp với nhau một cách chặt chẽ, bởi một âm na ná tương tự
cũng có thể chấp nhận được.
Nguyên tắc thơ lục bát
Âm của chữ thứ 6 của câu số 6 vần
với âm của chữ thứ 6 của câu số 8. Chữ thứ 8 của câu số 8 vần với chữ
thứ 6 của câu thứ 6 tiếp theo. Chữ thứ 6 của câu thứ 8 tiếp theo vần với
chữ thứ 6 của câu thứ 6 kế trên. Chữ thứ 8 của câu thứ 8 này vần với
chữ thứ 6 của câu thứ 6 tiếp theo . v.v….
Mô hình thơ lục bát như sau
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6 7 8
Trích đoạn thơ Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) của Nguyễn Du để minh hoạ thơ lục bát
….Đầu lòng hai ả Tố Nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
………
Qua đoạn thơ trên, chúng ta thấy
âm vận trong thơ lục bát không quá khắt khe. Nếu khi thuận lợi cho ý
thơ, có thể sử dụng âm vần nhau một cách chặt chẽ như : Nga, là – Vân,
thần, phân. Nhưng cũng có thể sử dụng những âm tương tợ để hợp với ý
câu, như : mười, vời, nở…
Thơ lục bát là thể loại thơ dễ
làm, nhưng không vì thế mà nó kém giá trị sử dụng. Với tài văn chương
của những thi sĩ hàng đầu, các tác giả vẫn có thể tạo nên những tác phẩm
thơ tuyệt bút.
THƠ THẤT NGÔN
Thất
Ngôn là thể loại Thơ mỗi câu có bẩy chữ, số lượng câu không giới hạn.
cách gieo vần trong thơ Thất Ngôn cũng rất đơn giản và “thoáng” có nghĩa
là vần na ná tương tự cũng có thể chấp nhận được, miễn là đọc lên nghe
xuôi tai, không chỏi là được.
QUY LUẬT
Hai câu đầu tiên bắt buộc : Chữ cuối của câu thứ nhất vần với chữ cuối của câu thứ hai (thường là âm Bằng)
Câu thứ ba, âm cuối là vần Trắc .
Câu thứ tư, âm cuối là vần Bằng.
Sau đó cứ một câu vần Trắc lại một câu vần Bằng.
MÔ HÌNH THƠ THẤT NGÔN
1 2 3 4 5 6 7
1 2 3 4 5 6 7
1 2 3 4 5 6 7
1 2 3 4 5 6 7
1 2 3 4 5 6 7
1 2 3 4 5 6 7
1 2 3 4 5 6 7
Một bài thơ minh hoạ :
…Giải lụa nào hay áo em bay
Cho lòng ta bỗng ngất ngây say
Tình ơi, em đã bao nhiêu tuổi
Để nhớ để thương suốt tháng ngày
Ai gõ vào tim từng tiếng đập
Cho hồn ta vỡ giấc mơ hoang
Em là Thiên Sứ đem ánh sáng
Từ thuở hồng hoang cõi địa đàng….
THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT
Giống
như thể loại thơ Thất Ngôn, nhưng Thất Ngôn Tứ Tuyệt là thơ chỉ có
bốn câu. Sự khác biệt của thể loại thơ này là bố cục bài thơ được gói
gọn trong bốn câu, còn quy luật thì cũng giống như thơ Thất Ngôn.
Ví dụ một bài thơ thuộc thể loại này :
Vạn pháp phù du khéo huyễn bày
Vô thường cho đến cả cỏ cây
Trăng non đương độ rồi trăng khuyết
Trong mắt em
Ngàn năm mây bay
THƠ THẤT NGÔN& THẤT NGÔN TỨ TUYỆT
Đây là cách làm thơ phối hợp hai thể loại Thất Ngôn lại với nhau.
Ví dụ một bài thơ minh hoạ :
TRỞ LẠI
Cho tôi trở lại mái chùa xưa
Với ngói rêu phong đã mấy mùa
Với cả hồ sen hương bát ngát
Với chiều tịch mịch tiếng chuông đưa
Cho tôi trở lại mái chùa xưa
Trở lại giòng sông mát bóng dừa
Trở lại đồi thông vang tiếng gió
Có rặng hoa vàng ngủ giữa trưa
Cho tôi trở lại mái chùa xưa
Dầu đã phong trần trải nắng mưa
Dẫu lớp sóng đời ô tuổi ngọc
Dẫu bao cay đắng nếm chưa vừa
Cho tôi trở lại ngày thơ ấu
Nhặt lá bên hiên quét cổng chùa
Tôi học bài kinh quên từ độ
Xuôi dòng thế tục nếm cay chua
Cho tôi trả lại Người – nhân thế -
Trả những oan khiên, những nợ nần
Trả những lợi danh và phú quý
Trả tình yêu lại kẻ Tình Chân
Cho tôi góp lại muôn lầm lỗi
Làm gói hành trang trở lại chùa
Cho tôi kính cẩn dâng Chư Phật
Lễ vật tâm thành đắt giá mua
Cho tôi xin được yên nghỉ mãi
Dưới rặng thông ngàn vướng vít mây
Cho hồn tôi quyện hồn cỏ dại
Thênh thang cánh gió hướng trời Tây.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ làm theo thể Thất Ngôn Tứ Tuyệt các khổ thơ còn lại làm theo thể Thất Ngôn
THƠ SONG THẤT LỤC BÁT
Song
Thất Lục Bát là loại thơ gồm hai câu bẩy chữ, một câu sáu và một câu
tám chữ. Mỗi khổ thơ có bốn câu như vậy và không hạn chế số khổ thơ
.Quy luật và âm vận được phối hợp như sau :
1 2 3 4 5 6 7
1 2 3 4 5 6 7
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6 7 8
Ví dụ hai khổ thơ minh hoạ :
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Nào ai gây dựng cho nên nỗi này
Trống trường thành lung lay bóng nguyệt
Khói cam tuyền mờ mịt thức mây
Bốn lần tên bắn trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh….
THƠ NGŨ NGÔN
Ngũ ngôn là thể loại thơ năm chữ, không hạn chế số câu. Quy luật thơ như sau :
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
…………..
Chữ cuối của câu đầu là vần trắc, chữ cuối của câu tiếp theo là vần Bằng. Sau đó cứ một câu vần Trắc, một câu vần Bằng…
Ví dụ minh hoạ :
Mùa Vu Lan năm ngoái
Anh tặng đoá hoa tươi
Em cài lên áo mới
Như mang một nụ cười
Mùa Vu lan năm ấy
Hoa nở ngập đường vui
Em đi trên mộng ước
Như đi giữa giòng đời
Mùa Vu Lan năm ấy
Mắt mẹ vẫn sáng ngời
Như mặt trời rực rỡ
Cho mùa xuân em tươi ....
THƠ TỨ NGÔN
Thơ
Tứ Ngôn là loại thơ bốn chữ. Giống như các loại thơ khác, mỗi khổ thơ
gồm 4 câu , nhưng tuỳ theo bố cục bài thơ, ý thơ mà số câu nhiều ít khác
nhau.
Chữ
cuối các câu 2, 3, 6, 7,… là âm Bằng và vần với nhau. Chữ cuối các câu
1, 4, 5, 8, 9, …là vần Trắc. Nói chung, từ câu thứ hai trở đi, cứ 2 câu
âm Bằng lại kèm 2 câu âm Trắc…
Quy luật thơ bốn chữ :
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
1 2 3 4
Ví dụ minh hoạ
Trong phòng hương toả
Khói thuốc nhạt nhoà
Hương khói quyện hoà
Như ta quấn quýt
Anh là khói thuốc
Em thỏi hương trầm
Đôi ta phù vân
Cùng nhau chấp cánh.
THƠ LỤC NGÔN
Thơ
lục ngôn là thơ sáu chữ. Quy luật thơ không khó lắm, nhưng làm theo thể
loại này, thơ khó hay, trừ khi nhà thơ phải thật tài năng.
Luật
thơ : Chữ cuối các câu 1 và các câu chẵn 2, 4, 6, 8…thuộc âm Bằng . câu
lẻ 3, 5, 7,…thuộc âm Trắc. Chữ thứ tư của câu dưới thường vần với chữ
thứ 6 của câu trên.
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
Ví dụ minh hoạ :
Tôi yêu, tôi yêu rất nhiều
Tôi yêu, yêu biết bao nhiêu
Tôi yêu tuổi thơ trong trắng
Tôi yêu ánh nắng mùa xuân
Tôi yêu chùm hoa hoang dã
Tôi yêu câu nói …ngại ngần
Tôi yêu trời xanh màu áo
Tôi yêu tiếng sáo hư không
Tôi yêu giòng sông mây trắng
Tôi yêu một cánh diều say
Tôi yêu bàn tay thân ái
Tôi yêu một chiều mưa bay …
THƠ BÁT NGÔN
Thơ bát ngôn là thơ tám chữ. Cách gieo vần cho thơ giống thơ Tứ ngôn như sau :
Chữ
cuối các câu 2, 3, 6, 7,….âm Bằng, chữ cuối các câu 1, 4, 5, 8, 9…âm
trắc .Nói chung, sau câu 2, 3, cứ cách 2 câu âm trắc lại là 2 câu âm
bằng.
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6 7 8
1 2 3 4 5 6 7 8
Ví dụ minh hoạ
…..Tình như gió bắt đầu cơn bão nổi
Tình như mây báo hiệu trận phong ba
Tình như men thiêu đốt suốt xương da
Tình nồng thắm mặn mà hoa đương độ
Gió đưa thuyền về bến sông kỳ ngộ
Đời đưa ta vào mê lộ tình yêu
Linh hồn ta nhắm mắt để bước liều
Không biết nữa Thiên Đường
Hay Địa Ngục
THƠ TỰ DO
Thơ
tự do là thể loại thơ không quy định bắt buộc số chữ trong câu, số câu
trong một bài, cũng không quy định âm luật cho bài thơ. Vì vậy, thơ tự
do tuỳ thuộc vào sự gieo vần ngẫu hứng của tác giả.
Ngày
nay , nhiều người tưởng mình làm “thơ tự do” nhưng thực ra chỉ là sự
ghép nối những câu văn xuôi ngăn ngắn, bởi vì Thơ chỉ được gọi là Thơ
khi đọc lên có vần có điệu, cho dù đó là thơ tự do đi nữa.
Ví dụ minh hoạ :
NẰM BÊN TRÁI
Anh có cái đầu
và một trái tim
Cái đầu ở giữa nhưng trái tim không chịu nằm ở giữa
Cái đầu dùng công lý xét soi
nhưng trái tim có lý lẽ riêng của nó
Nó không cần sự biết điều hợp lý
Nó tự do như gió như mây,
như cánh chim Hải Âu thênh thang trên những giải núi non hùng vĩ
Có những khi cái đầu reo vui
thì trái tim rên rỉ
Cái đầu nói đúng thì nó bảo sai, cái đầu muốn thôi
thì nó bảo rằng cứ nữa
Ôi trái tim
nó che dấu bao nhiêu điều kỳ bí
Mà cái đầu không bao giờ hiểu được đến nơi
Chàng hoa tiêu ở trên phải nghe lệnh ông chủ điên cuồng ở dưới
Bởi vì khi cái đầu bóp nát trái tim
thì có nghĩa là nó theo nhau về nơi chín suối
Khi anh nói yêu em
đó là điều nghịch lý
Nhưng biết làm sao được
vì tim anh nằm bên trái
Em ơi !
Muốn
làm thơ hay, các bạn phải có ý tưởng mới lạ, hoặc cái nhìn mới lạ về
những sự vật, sự việc quen thuộc . Ngoài ra bạn phải có bố cục hay, tìm
từ đắt giá.
Một bài thơ lý tưởng, là bài thơ làm cho người đọc có cảm xúc sâu sắc và ấn tượng khó phai với bài thơ đó.
Chúc các bạn thành công, sáng tác được những vần thơ tuyệt diệu .
No comments:
Post a Comment